Một đời lấy giáo dục nuôi giáo dục
Thứ ba, 25 Tháng 11 2008 00:00
Nếu được hỏi về người bạn luôn song hành với “Vì ngày mai phát triển”
(VNMPT) suốt 20 năm qua, chắc chắn những người thực hiện và bất cứ ai có
theo dõi chương trình sẽ bật lên ngay: ông bà Dương Quang Thiện.
Đến với VNMPT từ những ngày đầu tiên: chương trình thứ 3 năm 1989, 20 năm nay nụ cười tươi của bà và đôi chân yếu của ông đã xuất hiện ở khắp nơi: lễ trao học bổng, khánh thành cầu Long Thới ở Nhà Bè, trường học ở Sơn La, nhà lưu trú ở Bình Phước…
Ông bà Dương Quang Thiện và các em học sinh Trường Long Thới (Nhà Bè,
TP.HCM) trên cây cầu dẫn vào trường - do ông bà tài trợ xây dựng - vừa
khánh thành (tháng 12-1989) -Ảnh tư liệu của Tuổi Trẻ
Rất nhiều
người đã ngỡ ông bà Dương Quang Thiện là “đại gia” với hàng núi tài
sản. Đến thăm ông bà trong ngôi biệt thự nhỏ và yên tĩnh khuất trong một
hẻm sâu sẽ ngỡ ngàng trước nếp sống tiết kiệm, giản dị và sự cũ kỹ của
những bộ bàn ghế, chiếc giá sách... Sang trọng nhất trong nhà ngoài
những chồng sách vở chính là mảnh vườn với những chậu lan, những cây
sống đời được chăm sóc công phu mà mỗi chiều ông và bà lại song đôi lặng
ngắm.
Sinh ra trong một gia đình nghèo, lại sống giữa một
thành phố sầm uất như Sài Gòn, tôi sớm hiểu chỉ có học mới thay đổi được
tương lai. Học và học giỏi, được tài trợ học bổng du học. Người trao
học bổng cho tôi bảo: “Hôm nay tôi giúp anh, nhưng anh không nợ gì chúng
tôi cả. Muốn cảm ơn, anh hãy trả món nợ ấy cho những người đi sau anh,
những người gặp khó khăn như anh hôm nay”. Câu nói ấy thúc đẩy tôi học
và cũng câu nói ấy kéo tôi về với đất nước. Dù đã lấy vợ “đầm” (người
Thụy Sĩ - bà Agnès Dương Quang Hofstetter), tôi thổ lộ rằng đất nước tôi
cần tôi hơn. Và “bà đầm” đồng ý theo tôi về VN. Khi ấy là năm 1965, tôi
31 tuổi.
Rất nhiều lá thư kết nối với VNMPT chúng tôi nhận
được hôm nay là của những SV đã nhận học bổng đợt 3 năm ấy, ai cũng nhắc
nhớ ý tưởng ông đã nhắn nhủ: “Sau này khi có điều kiện, các em hãy giúp
đỡ những người đi sau mình”.
Trong tư liệu của chương trình
VNMPT có ghi lại một câu chuyện tại buổi trao học bổng lần 10 cho các SV
ngành điện toán. Trong lúc trò chuyện, ông Dương Quang Thiện chợt hỏi:
“Các em học điện toán sau này định làm gì?”. Mọi người nhìn nhau, ngần
ngừ. Ông hỏi tiếp: “Có ai dự định sẽ trở về quê nhà làm việc không?”.
Một bạn mạnh dạn thưa: e rằng quê nhà lạc hậu, không có điều kiện để
theo đuổi và phát huy ngành mình học.
Ông đã kể ra câu chuyện
của chính mình: một kỹ sư điện toán của Hãng IBM đã từ châu Âu trở về VN
năm 1965, một đất nước lạc hậu lại đang ngập trong chiến tranh, bắt đầu
những bước đi đầu tiên của ngành công nghệ thông tin.
Tôi nghĩ
nước mình còn nghèo, còn lạc hậu nên sẽ cần mình hơn là nước người đã
phát triển. Tôi là kỹ sư người Việt đầu tiên của IBM. Tôi cũng đã đào
tạo những lập trình viên đầu tiên ở VN. Năm 1975, nhiều người ra đi. Tôi
nghĩ đất nước mình vẫn cần mình.
Khi có khoản tiền kha khá đầu
tiên là tiền lương hưu giáo viên của “bà đầm” được Chính phủ Thụy Sĩ
chuyển về, ông bà mang ngay đến chương trình VNMPT, “lấy giáo dục nuôi
giáo dục”.
Những ngày ấy, bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Văn
Linh bảo “phải tự cứu mình”. Và ở phòng làm việc của tôi, giờ nghỉ trưa
xuất hiện một tổ hợp sản xuất ruột bút bi, cung cấp nguyên liệu cho một
số công ty bút bi. Cứ vậy đến tận 1996, nhờ thế mà tôi có tiền làm công
tác xã hội.
Ông cười thoải mái, nhưng đó chỉ là một thời gian
khó. Việc giáo dục nuôi giáo dục, tri thức trả về tri thức mà cả đời ông
đã làm mỗi ngày cho đến bây giờ - 74 tuổi, là viết sách giảng dạy tin
học, hướng dẫn lập trình. Những cuốn sách mang tên Dương Quang Thiện
không thể thiếu trong hành trang của “dân” công nghệ thông tin.
Mỗi ngày ngồi trên máy ít nhất sáu giờ, ông rút hết những kiến thức,
kinh nghiệm mình tích lũy được qua bao năm để có được bộ sách hướng dẫn
đơn giản, dễ hiểu nhất cho SV. Tiền kiếm được từ việc bán sách, ông lại
lên kế hoạch cho các chương trình học bổng, xây dựng trường học, và tính
toán chi tiết sao cho thật là có lợi.
Năm 2003, tôi tài trợ
cho một cô SV học bổng cao học nông nghiệp ở Hà Lan, mỗi năm 10.000 USD.
Tôi bảo cô ấy phải tìm học thật nhiều kinh nghiệm của nông dân Hà Lan,
sau này về nước tìm cách phát triển nông nghiệp giúp bà con nông dân
mình.
Hết ba năm, cô về nước và được Công ty Dalat Harfarm mời
làm việc. Cô ấy làm hai năm rồi nghỉ, mở một trung tâm nghiên cứu các dự
án để tư vấn trồng trọt, tìm đầu ra cho nông sản. Cô ấy còn liên hệ
được một tổ chức phát triển nông nghiệp ở Đức tài trợ lập quỹ tín dụng
cho vay và luân chuyển vốn cho nông dân. Sắp tới tôi cũng sẽ góp thêm
vào quỹ ấy.
Ông say sưa nói về những đòi hỏi, mong muốn của ông
với sự phát triển của VNMPT: cần xác định rõ hơn trách nhiệm của các
thành viên với thế hệ đi sau; cần dõi theo từng bước đi, từng thành quả
của những người đã nhận học bổng… Và cả những gợi ý tưởng chừng vượt
sức: Tuổi Trẻ thử đầu tư sâu vào một địa phương, tài trợ cho các nhà
khoa học nghiên cứu địa lý, thổ nhưỡng, con người xem vì sao mà nghèo,
làm thế nào để khắc phục, và hãy tài trợ cho các dự án đó.
...
Chúng tôi hiểu những gì ông bà Dương Quang Thiện đã dành cả đời mình để
theo đuổi, đã chọn chương trình VNMPT để đồng hành và chúng tôi biết
mình sẽ còn rất nhiều việc phải làm.
Bức ảnh chúng tôi với cô chú Dương Quang Thiện (giữa) trong dịp trao học bổng Vì ngày mai phát triển lần ba (6-5-1989)
PHẠM VŨ
http://tuoitre.vn/Nhip-song-tre/289047/mot-doi-lay-giao-duc-nuoi-giao-duc.html
Tổng số lượt xem trang
Chủ Nhật, 30 tháng 3, 2014
Thứ Sáu, 28 tháng 3, 2014
NGUYỄN CHÁNH TÍN VÀ CHUYỆN LÙM XÙM CỦA ÔNG TA
Hình như ngày hôm nay, 28/3/2014, chuyện lùm xùm của diễn viên gạo cội Nguyễn Chánh Tín (NCT) sắp đến hồi kết thúc. Chi cục thi hành án Q.10 đã ra quyết định thi hành án, buộc ông Nguyễn Chánh Tín phải bàn giao ngôi nhà cho Ngân hàng Phương Nam. Không biết lần này người ta có dứt khoát hay không trong việc thi hành án.
Thiện mỗ, không biết có gì để nói không, khi Thiện mỗ chả phải là fan của ông Tín, và cũng chã có ân oán giang hồ chi với ông ta mà phải lên tiếng. Thế nhưng, Thiện mỗ thấy ngứa ngáy thế nào ấy, nên đành viết thôi. Chỉ có điều, Thiện mỗ không có mục tiêu rõ ràng nhất quán sẵn trước cho bài viết, cho nên Thiện mỗ sẽ viết lần dựa theo sự đưa đẫy của tình hình, của phạm trù dòng văn. Thiện mỗ là dân kỹ thuật, bây giờ về già lại đua đòi "viết văn", cho nên các bạn thông cảm nhé.
Câu chuyện bắt đầu như thế này. Không biết ngày nào, thình lình trên báo chí đăng tin là diễn viên gạo cội Nguyễn Chánh Tín (người thủ vai chính trong phim tình báo nổi tiếng "Ván bài lật ngửa") sắp sữa bị tống ra khỏi nhà, vì bị ngân hàng siết nhà. Nghe mà thấy xót xa cho thân phận của một con người nghệ sĩ khi về già. Tiếp theo là màn kêu gọi bà con giúp đở ông Tín của "táo quân" Chí Trung. Thế là người hâm mộ ùn ùn gởi tiền biếu tặng, nghe nói lên đến 600 triệu đồng.
Sau một thời gian cám cảnh ngắn ngủi, người ta mới tìm hiểu lý do vì sao cớ sự thế nào mà ông Tín phải bị cho ra đường ở. Ông ta phân trần trong báo chí rằng: ông ta có mở một hãng phim, ông ta vay tiền ngân hàng 8,5 tỉ để làm phim Dòng Máu Anh Hùng (DMAH). Phim này tốn vào khoảng 1,5 triệu đô, nghĩa là 30 tỉ đồng VN. Khi phát hành phim, thì bị người ta ăn cắp bãn quyền ở ngoại quốc, nên doanh thu phát hành ở ngoại quốc không khả quan, coi như phá sản. Nợ gốc và lãi ngân hàng không trả được, nên lên đến 10,50 tỉ đồng. Và điều kỳ cục là phim DMAH được sản xuất cách đây 10 năm, mà hậu quả nay mới lòi ra. Nói tóm lại, ông NCT cho rằng việc sản xuất DMAH, bị ăn cắp bản quyền đã dẫn ông ta đến vở nợ, phá sản. Thật tội nghiệp cho ông ta. Nghe như thế ai lại không mũi lòng.
Nhưng sự đời, nó thế mà không phải là thế. Trong một buổi than thở với báo chí, NCT đã trách móc diễn viên Ngô Thanh Vân (NTV) là vô ơn. Thế là, trong Facebook của mình, NTV đã viết như sau: "Phim Dòng máu anh hùng kinh phí 30 tỷ, chú bỏ ra 8 tỷ, vậy còn 22 tỷ ở đâu ra? Thì tụi cháu bỏ ra chứ ai đâu mà ra. Từ 8 tỷ chú nợ thành 10 tỷ, vậy từ 22 tỷ, tụi cháu sẽ nợ thành 27,5 tỷ rồi, chú mất nhà thì chắc tụi cháu mất mạng luôn rồi.
Thật ra, như mình biết, phim Dòng máu anh hùng, kịch bản là do Johnny Trí Nguyễn và anh trai Charlie Nguyễn viết. Khi thực hiện cũng do Charlie Nguyễn làm đạo diễn và Johnny làm chỉ đạo võ thuật với ekip Chánh Phương phim do vợ chồng anh Jimmy Nghiêm làm giám đốc, vậy xin hỏi chú Chánh Tín ở vị trí nào? Có chăng cũng chỉ dừng lại ở vị trí nhà đầu tư với số vốn vay mượn 1/4 của tổng kinh phí mà thôi. Vậy chú có giúp ích gì cho phim Dòng máu anh hùng hay tạo dựng 2 tên tuổi Ngô Thanh Vân và Johnny Trí Nguyễn mà chú nói trên báo chí rằng nhờ chú đưa tụi nó lên... Còn chú, sau Dòng máu anh hùng, vì tức chí cũng tách ra làm phim Suối oan hồn & Ngôi nhà bí ẩn... Nói thật, chú là một diễn viên giỏi nhưng chỉ là một đạo diễn xoàng. Phải đính chính lại rằng chú Tín nợ nần vì không có thực tài làm phim chứ không phải vì Dòng máu anh hùng (Chánh Phương film đã hoàn trả đủ lại số tiền chú đã đầu tư vào Dòng máu anh hùng), nên chú đừng trách móc mấy đứa cháu tội nghiệp nó, làm người ta hiểu lầm."
Như vậy, qua lời của NTV, thì ông NCT (1) đã thu hồi lại số tiền đầu tư 8 tỉ trong DMAH, (2) phim DMAH không phải là sản phẩm của ông NCT, nên chuyện thất bại trong phát hành phim DMAH không thuộc phần ông phải gánh vác, thế mà ông bảo là vì DMAH mà ông bị phá sản, trái với lời khẳng định của NTV: "Phải đính chính lại rằng chú Tín nợ nần vì không có thực tài làm phim chứ không phải vì Dòng máu anh hùng (Chánh Phương film đã hoàn trả đủ lại số tiền chú đã đầu tư vào Dòng máu anh hùng)".
Ngoài ra, trong cuộc phân trần với báo chí, khi bị hỏi là NCT có nhờ chánh quyền Mỹ can thiệp hay không về việc bản quyền phim DMAH bị đánh cắp, thì NCT trả lời như sau: "Tôi có kiện đó chứ. Tôi bay sang tới Mỹ để tìm hiểu và chuẩn bị mọi thủ tục cho việc đòi lại thiệt hại từ việc đứa con tinh thần của mình bị ăn cắp trắng trợn. Tuy nhiên, lúc đó FBI có khuyên tôi nên suy nghĩ kĩ rằng nếu ông đi kiện thì sẽ tốn đến 500.000 USD án phí mà nếu có bắt được đứa ăn cắp, nếu nó "có tóc" thì có thể đền chút ít cho ông còn xui dính ngay đứa nghèo xơ xác thì lấy tiền đâu ra mà đền. Nó vô tù còn ông thì cũng bị mất luôn cả trăm ngàn đô la. Tôi chỉ biết ngậm trái đắng mà quay về Việt Nam với món nợ ngày càng sinh lãi cao từ phía ngân hàng." Một bác sĩ Nguyễn Thùy Trang nào đó khi đọc phân trần trên của NCT đã viết: "Đây là câu chuyện hết sức hoang đường mà Nguyễn Chánh Tín đưa ra. Thứ nhất là FBI (Cục điều tra liên bang Hoa Kỳ) KHÔNG làm công việc điều tra những vụ kiện về bản quyền. Tất cả những vụ kiện tụng về bản quyền đều do hệ thống tòa án điều hành." Đúng thế. Tới đây, ta có thể kết luận là NCT không trung thực, đã nói dối với người hâm mộ, nghĩa là xem thường người hâm mộ và bạn đọc, cũng như bịa đặt để gây thương cảm.
Theo Thiện mỗ suy nghĩ: Các nghệ sĩ, ca sĩ, "hét sĩ" thường họ sống trong một thế giới ảo, tương tự như các nhà tu hành, các linh mục hoặc các sư sãi, họ sống trong một thế giới tâm linh hoàn toàn khác với thế giới thực tế, chạy theo tiền bạc là chính. Do vậy, khi họ thoát khỏi thế giới ảo của họ đi vào thế giới thực tại tiền bạc, nên họ mới gặp nạn. Ở Mỹ chẵng hạn, bao giờ cũng có một ông bầu, bà bầu (ta gọi là coach) lo mọi việc đụng tới tiền bạc cho đám diễn viên Hollywood, hoặc cho đám cầu thủ bóng đá. Còn ở đây, ông NCT tưởng cái ánh hào quang diễn viên của ông ta là số dzách nên mới đưa mình ra mở công ty phim, mà không biết nghiệp vụ nghề ngỗng ra sao. Nghe nói là trước giải phóng ông ta học luật, thì phải rành những luật lệ liên quan đến tiền bạc. Nghe cái chuyện ông đi vay tiền, thế chấp, rồi bán cầm cố, làm thế nào mà đi đến tình trạng rối như canh hẹ, để rồi bảo là ngân hàng lừa ông ta mà không trưng ra một bằng chứng, hoặc là bị gài bẫy. Ông ta đi vào cái thế giới tiền bạc mà không có luật sư cố vấn hoặc một coach biết nghiệp vụ lo đở đần mọi việc liên quan đến tiền bạc. Nói tóm lại, mỗi nghề nghiệp cỏ những chuyên môn đặc biệt của nó, và phải được đào tạo có bài bản. Ta không thể nhãy vào một ngành nghề mà ta chưa hề được đào tạo, huấn luyện. Nếu lòng tham lôi cuốn vào một sự việc như thế, thì vỡ mồm là cái chắc trong tầm tay.
Chỉ xin lưu ý một chi tiết: Theo ông Nguyễn Ngọc Tuấn (Phó Tổng giám đốc Ngân hàng Phương Nam) thì vợ chồng ông Nguyễn Chánh Tín thế chấp căn nhà để bảo lãnh cho khoản vay 8,3 tỷ đồng vào ngày ngày 9/7/2008. Trong khi đó, phim Dòng máu anh hùng khởi quay đầu năm 2006, và công chiếu trên cả nước ngày 27/4/2007.
Tới đây, ta có thể kết luận việc phá sản của ông NCT không phải do phim DMAH mà ra, như theo lời bảo của NCT, mà do những phi vụ gì đó mà NCT không thể cho bà con hâm mộ biết.
Người hâm mộ đang phân vân có nên tiếp tục ra tay giúp đở NCT hay không, và nghe tin đồn một nhóm mạnh thường nào đó dự định mua lại căn nhà để cho NCT ở suốt đời, thì đùng một cái có người cho phát tán một băng ghi âm một cuộc nói chuyện giữa NCT và vợ của một ông "anh kết nghĩa" của NCT, nay đã qua đời. Hồi thời sanh tiền, ông anh kết nghĩa đã cầm cố cái nhà mình đang ở tại ngân hàng Phương Nam (lại cái ngân hàng này), để vay 1,250 tỉ để cho NCT làm phim. Tới giờ đó đến nay NCT không trã lại tiền nên tiền vốn và lãi nay lên đến 2 tỉ, và ngân hàng bắt đầu phát mãi căn nhà, và gia đình 9 người cũng đang chuẫn bị ra đường ở. Ông NCT bảo rằng ông anh kết nghĩa đã hùn hạp làm ăn, nay hãng phim lỗ, thì ráng mà chịu. Nghe mà "tức cành hông". Khi ông NCT hùn 7,5 tỉ làm phim DMAH với đám con cháu, và phim bị lỗ, mà đám con cháu đã trả toàn bộ tiền hùn hạp, thì ông NCT nghĩ thế nào việc ông đối xữ ông anh kết nghĩa. NCT là một nghệ sĩ, thuộc loại sĩ, loại trí thức mà sao suy nghĩ trí trá bất nhẫn. Ông NCT bảo ông anh kết nghĩa đã hùn hạp làm ăn, thì phải biết lời ăn lỗ chịu. Việc này thì ai lại không biết. Nhưng có gì bảo đãm lời nói của ông NCT là đúng sự thật. Theo Thiện mỗ, thì có thể chứng minh một cách dễ dàng. Ông NCT có một công ty phim, thì theo luật định ông ta phải làm kế toán. Ngày ngân hàng trao tiền cho ông anh kết nghĩa, thì ông này trao tiền NCT, và ông NCT phải ghi vào sổ sách. Chỉ cần xem số tiền này, 1,250 tỉ, ghi vào mục nào. Nếu ghi vào mục tài sản cổ đông góp vốn thì là số tiền hùn hạp. Còn nếu ghi vào mục công nợ người khác (tỉers) thì là tiền vay, phải trả lãi hằng năm. Chỉ cần kiểm tra các mục vào, thì biết là hùn hạp hay không, chứng minh lời nói của NCT có khả tín hay không.
Cuối cùng, là việc ông NCT đem thế chấp chấp căn nhà mình đang ở với ngân hàng Phương Nam, vay 8,5 tỉ nói là để đầu tư vảo bộ phim DMAH. Theo nguyên tắc, ông NC T cũng đã biết rõ là khi vay thế chấp như thế thì khi đáo hạn mà không thanh toán tiền gốc và lãi, thì căn nhà sẽ bị đem đi phát mãi. Khi biết mình phá sản không trả nỗi số tiền gốc và lãi lên đến 10,5 tỉ, NCT đã đồng ý bán căn nhà thế chấp với giá 10,5 tỉ cho ngân hàng Phương Nam. Giấy tờ đã làm xong, theo nguyên tắc phãi trả nhà cho ngân hàng, thế mà ông NCT và gia đình vẫn không chịu trả nhà từ... 4 năm nay, kháng cáo lên kháng cáo xuống, nại đủ thứ lý do nào là bệnh nặng, nào là lo chuyện định cư của cậu con trai ở Canada, những lý do hết sức vô duyên. Theo Thiện mỗ, ông NCT là một trí thức, việc tôn trọng pháp luật, việc tôn trọng các điều khoản hợp đồng kinh tế tài chính đã ký kết là quan trọng, thế mà ông ta đã xem thường. Tinh thần thượng tôn pháp luật không có.
Nói tóm lại, hình như ông NCT xem thường mọi người, mọi cơ quan nhà nước, mọi thứ đạo lý làm người thì phải. Có lẽ, ông nghì rằng mình là một diễn viên gạo cội, nên phải có một luật lệ đặc biệt dành cho ông ta. Luật lệ gì thế, thì xin hỏi ông ta.
Tới đây, xin kết thúc câu chuyện, mà không kết luận gì cả. Chuyện của ông Tín làm thì ông tự giãi quyết lấy. Giáo dục là gì? Tôi thường bảo giáo dục là cách dạy cho con người ta giải quyết vấn đề. Ông Tín dính vào vụ liên quan đến tiền bạc, mà chưa được giáo dục, thì ông phải tìm ai đó dạy cho ông cách giãi quyết vấn đề liên quan đến tiền bạc, chả có ai có thể thay thế ông Tín giải quyết vấn đề. Tục ngữ Đức có câu: "Wie man sich bettet, so liegt man", tạm dịch là "Chúng ta dọn giường thế nào, thì ráng mà ngủ thế nấy". Nếu ta muốn nằm đất thì ráng mà chịu đau lưng.
BÀI VIẾT TRÊN FACEBOOK - 3/2014
CÁC BÀI BÁO TRÊN FACEBOOK - THÁNG 3/2014
KỸ NIỆM 100 NĂM THẾ CHIẾN THỨ NHẤT - ĐOÀN QUÂN THUỘC ĐỊA BỊ BỎ QUÊN
Các bạn có biết chuyện này không.
Trong năm nay, nước Pháp tổ chức 100 năm Thế Chiến Thứ Nhất (1914-1918). Để chống lại quân Đức, Pháp đã huy động 600.000 dân thuộc địa tham gia vào cuộc chiến bảo vệ nước Pháp, trong ấy dân Việt Nam chiếm 50.000 người. Nói là huy động cho vui, chứ thực chất là bắt cóc dân quê dẫn xuống tàu chở qua Pháp. Hồi nớ, người ta gọi là lính thợ (xem hình) vì phần lớn người VN bị sung công làm trong những xưởng chế tạo vũ khí ở miền Nam nước Pháp, gần Marseille. Vào khoảng 20% chết trong chiến trận. Sau thế chiến, số người Việt lính thợ không được trã về VN mà bị ép định cư ở miền Nam nước Pháp, vì lý do là những lính thợ này đã bị tiêm nhiễm CS. Qua thời gian, những người này lập gia đình lấy vợ là gái Pháp. Vì khi bị đi lính, họ thuôc thành phần nông dân ít học thức, nên các thế hệ sau, con cái cũng không ăn học cao so với người Pháp. Khi họ định cư ở miền nam nước Pháp, tại một vùng đầm lầy lau sậy, giống như Đồng Tháp Mười. Họ biến vùng này thành một vùng trồng lúa duy nhất ở châu Âu.
Cái kỳ cục nhất là trong cuộc tổ chức kỹ niệm, đoàn quân thuộc địa không được nhắc tới tuyên dương. Chủ tịch đãng FN, Marie Le Pen đã chĩ trích thái độ này bảo rằng "đến chết rồi mà còn apartheid"
L
Các bạn có biết chuyện này không.
Trong năm nay, nước Pháp tổ chức 100 năm Thế Chiến Thứ Nhất (1914-1918). Để chống lại quân Đức, Pháp đã huy động 600.000 dân thuộc địa tham gia vào cuộc chiến bảo vệ nước Pháp, trong ấy dân Việt Nam chiếm 50.000 người. Nói là huy động cho vui, chứ thực chất là bắt cóc dân quê dẫn xuống tàu chở qua Pháp. Hồi nớ, người ta gọi là lính thợ (xem hình) vì phần lớn người VN bị sung công làm trong những xưởng chế tạo vũ khí ở miền Nam nước Pháp, gần Marseille. Vào khoảng 20% chết trong chiến trận. Sau thế chiến, số người Việt lính thợ không được trã về VN mà bị ép định cư ở miền Nam nước Pháp, vì lý do là những lính thợ này đã bị tiêm nhiễm CS. Qua thời gian, những người này lập gia đình lấy vợ là gái Pháp. Vì khi bị đi lính, họ thuôc thành phần nông dân ít học thức, nên các thế hệ sau, con cái cũng không ăn học cao so với người Pháp. Khi họ định cư ở miền nam nước Pháp, tại một vùng đầm lầy lau sậy, giống như Đồng Tháp Mười. Họ biến vùng này thành một vùng trồng lúa duy nhất ở châu Âu.
Cái kỳ cục nhất là trong cuộc tổ chức kỹ niệm, đoàn quân thuộc địa không được nhắc tới tuyên dương. Chủ tịch đãng FN, Marie Le Pen đã chĩ trích thái độ này bảo rằng "đến chết rồi mà còn apartheid"
L
Ư
DƯƠNG QUANG THIỆN
1/3/2014
BÍT TẾT CÔNG NGHIỆP
Các bạn có biết không...
Có một nhà nghiên cứu Mỹ, tên Mark Post, vừa tạo thành công một cái gì các bạn biết không: một miếng hamburger, chỉ nặng 140 gam, nhưng với giá thí nghiệm là ... 250.000 đô, 10 tỉ đồng VN, và mất đến 3 tháng làm việc. Cuối cùng thì miếng hamburger cũng được đưa lên truyền cho ăn thữ, xem có đúng gu con người không. Người ta đang tranh công với Đức Chúa Trời. Cái vui nhất, là ở Silicon Valley, Mỹ, đang có vô số công ty start up đang lăng xã vào việc tạo ra thực phẫm qua đường công nghiệp hoá.
Khi nào rãnh, Thiện mỗ sẽ trình bày cho bà con đọc cho vui.
DƯƠNG QUANG THIỆN -- 3/3/2014
CÂU CHUYỆN TINH TRÙNG...
Có một câu chuyện vui vui, đọc được trong báo Pháp sáng nay, 5/3/2014. Nó như vầy:
Theo một báo cáo, thì tinh trùng của đàn ông Pháp đã giảm đi 50%, và sức mạnh "vượt ngủ môn" của tinh trùng cũng giãm đi 50%. Người ta cho lý do là đàn ông Pháp giờ đây, cũng làm dáng như đàn bà, dùng nhiều kem mỹ phẩm và xà phòng vệ sinh cao cấp chứa nhiều hoá chất làm nhiểu loạn nội tiết tố. Đây là chưa nói đến những bệnh dị tật liên quan đến bộ phận sinh dục khi nam khi mới ra đời.
Bạn nam nhớ mà dùng các loại quảng cáo trên TV: nivea x men clear men v.v.. rồi đi xét nghiệm tinh trùng xem ra sao
Việc này làm tôi nhớ đến cả chục bánh xà phòng Dove mà mấy người bà con vk Mỹ tặng tôi từ 1980 đến giờ, mà tôi chưa dùng. Ngẫm lại từ khi đi tây về, tôi chưa bao giờ dùng xà phòng. Và cũng không biết mình có ở dơ không khi không dùng xà phòng gần nữa thế kỹ.
DƯƠNG QUANG THIỆN -- 5/3/2014
CON CÒ
Mời bạn đọc bài thơ lượm được trong TTCN:
Con cò lặn lội bờ sông
Cò ơi sao nỡ quên công mẹ già
Hỏi rằng ai đẻ cò ra
Mà cò nỡ bỏ mẹ già không chăm
Mẹ xùa lam lũ tảo tần
Nuôi cò mõ đỏ trắng long bằng người
Cò ơi cò bạc như vôi
Đến khi thành đạt quên thời ấu thơ...
So với bài thơ Con Cò của tuổi thơ, chỉ có câu đầu là giống nhau.
DƯƠNG QUANG THIỆN -- 9/3/2014
UKRAINE ĐI VỀ ĐÂU?
Từ mấy tuần nay, chắc bạn đã nghe chuyện lộn xộn ở Ukraine. Có gần đến 10.000 người Việt đang sinh sống làm ăn ở cái xứ xa xôi mà dân miền Nam chả hề để ý.
Cái nực cười là như vầy:
Chắc bạn đã biết khi khối CS Liên Xô và Đông Âu tan rã, thì có một nước CS khác gọi là Nam Tư (Yougoslavie) do Tito thành lập cũng tan rã theo với sự vui mừng của Tây Âu và Mỹ. Nam tư bị chẽ thành 6 nước độc lập: Bosnie-Herzégovine, Croatie, Macédoine, Monténégro, Serbie, và Slovénie. Viết theo tiếng Pháp. Trong các nước Serbie là mạnh nhất điều khiển bởi Slobodan Milosevic. Mỹ và EU không ưa cha nội này. Trong Serbie, có một tỉnh tên là Kosovo, 60% là dân serbe, còn 40% là dân gốc albanie. Thế là Kosovo đòi ly khai khỏi Serbie. Mỹ và EU ũng hộ sự ly khai này. Milosevic đem quân đàn áp, thế là Mỹ và NATO, năm 1999, cho ném bom tàn phá Serbie, bắt Milosevic giam xữ ở toà án La Haye (Hà Lan). Milosevic chết khi đang bị xữ án. Rốt cuộc Kosovo được độc lập. Serbie mất Kosovo.
Bây giờ, màn kịch thứ 2. Ukraine là một tĩnh cũ của LX, được độc lập khỏi Nga. Tây Âu và Mỹ muốn Ukraine theo EU. Vừa rồi họ ủng hộ phe nổi loạn chống tổng thống đương quyền Yanukovich, lật đổ được ông này. Trong Ukraine, có một tĩnh tên Crimee, có 60% dân gốc Nga. Tỉnh này đòi ly khai khỏi Ukraine, giống như Kosovo với Serbie. Nhưng ở đây EU và Mỹ bảo là không hợp pháp. Cái vui là ở chỗ đó: hai tỉnh đều cùng trường hợp như nhau, nhưng Kosovo, thì OK còn Crimee thì không được. Nga chưa tính vào Ukraine mà Mỹ và EU đã kêu ầm lên đòi trừng phạt Nga này nọ, trong khi thả bom ở Serbie và bắt đi Milosevic tổng thống đương nhiệm thì họ coi là OK, là đúng luật pháp quốc tế rừng rú.
Bây giờ, là cuộc so găng giữa Obama và Putin. Ta sẽ xem cuộc đấu võ đài của hai cha nội này sẽ đi tới đâu. Các bạn cỏ thể cá cược được đấy.
DƯƠNG QUANG THIỆN -- 14/3/2014
ĐẶNG LÊ NGUYÊN VŨ VÀ CÀ PHÊ TRUNG NGUYÊN
Ngày hôm nay, 16/3/2014, tôi đọc một bài về cái ám ảnh của "ông vua cà phê" Đ L N Vũ. Sau đây là một đoạn trích, bạn đọc xem:
"Chính vì lẽ đó, theo Đặng Lê Nguyên Vũ, điều căn cốt để có một nước Việt, một dân tộc Việt hùng mạnh là phải tạo dựng, kiến thiết được một nền văn hóa Việt đặc sắc, đủ vững mạnh để chống lại sự xâm thực bởi các nền văn hóa khác."
Bạn hình dung giùm xem "nền văn hoá Việt đặc sắc" là cái gì. Thiện mỗ thường nghe các ông lớn ông bé bảo "bản sắc dân tộc" là cái gì thế. Thiện mỗ chỉ thường nghe bảo rằng, người Việt khi ở ngoại quốc, người ta hỏi quí vị là người nước nào, thì người Việt mình thường trả lời "chúng tôi là người Nhật" . Nghe mà buồn.
DƯƠNG QUANG THIỆN -- 16/03/2014
BILL GATES PHÁN...
Bill Gates vừa mới phán là trong tương lai, những công việc hèn mọn sẽ bị thay thế bởi robot. Do đó, nước Mỹ sẽ là nước Thiên Đàng cho người nghèo, nằm chờ sung rụng hã mồm mà nhai. Nhà nước sẽ cấp phiếu lương thực (hiện giờ ìa 300 đô/tháng) để mà sống. Còn Thiện mỗ, không giàu bằng Bill Gates (còn lâu mới bằng) thì có thể làm thầy bói phán rằng: trong tương lai, 5-10 năm nữa, ngành kế toán, ngành kinh tế MBA ở Mỹ cũng sẽ thất nghiệp và biến khỏi nước Mỹ trước tiên, sau đỏ các nước khác. Với tốc độ tin học hoá sử dụng ERP tại Mỹ, thì chắc ông thầy bói Thiện đoán không sai đâu. Do đó, dân VN ta nên bỏ học kế toán và MBA mà chạy ERP thì vừa.
DƯƠNG QUANG THIỆN - 18/03/2014
MỸ ĐANG TÌM CÁCH LÙA TIỀN CẤT DẤU CỦA CÁC ĐẠI GIA MỸ VỀ MỸ
Chính quyền Mỹ ước tính có vào khoảng 44.000 tỉ đô của các đại gia trôi nổi cất dấu ở đâu đó trên các thiên đường trốn thuế như Bermudes, Iles Vierges, ...trong số tiền trên thì Mỹ chiếm 90%, nghĩa là 40.000 tỉ đô. Nếu đem về được lại Mỹ, và nếu đánh thuế tài sản 1,5% năm, thì chính phủ Mỹ cũng kiếm được 600 tỉ đô. Nếu ngân sách liên bang vào khoảng 4.000 tỉ đô, và thâm hụt ngân sách 1.200 tỉ đô, thì 600 tỉ đô thuế tài sản của các đại gia sẽ là một mơ ước hấp dẫn giúp giảm thâm hụt.
DƯƠNG QUANG THIỆN -- 18/03/2014
CÔNG NGHỆ TÌNH DỤC CỦA MỸ...
Sáng nay đọc báo TT, có bài báo liên quan đến công nghệ tình dục ở Mỹ lên đến 1 tỉ đô. Chắc là TT đang vận động hành lang cho phép hành nghề này ở VN để kiếm thêm tiền trong thời buỗi gạo châu cũi quế, cũng như người ta đang vận động hành lang cho mở casino làm cho bộ trưởng gì đó đang bị áp lực nặng. Thật ra, con số TT đưa ra là chưa chính xác. Ngày 18/1/2014, vào đầu năm nay, ở Las Vegas, Mỹ, có một cuộc triễn lãm mang tên Adult Entertainment, kéo dài 1 tuần, với 30.000 người đến xem. Triễn lãm này có trao giãi thưởng, vào khoảng 10 cái thì phải. Triển lảm này trình bày thượng vàng hạ cám tất cả toàn bộ ngành công nghiệp tình dục Mỹ với doanh thu lên đến con số kinh khủng là...28 tỉ đô, chứ không phãi 1 tỉ đô như theo TT. (Nếu bạn biết toàn bộ xuất khẩu thuỷ hải sản của VN chỉ mới đạt 23 tỉ đô mà thôi, nên ta cũng thèm có cái kỹ nghệ tình dục này). Tại triển lảm này bạn cỏ thể mua một con búp bê bằng nhựa bơm hơi giống như thiệt với giá 8.000 đô, hoặc đủ loại sex toy v.v..
Theo nguyên tắc, ta theo CNCS, nên phải công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghiệp hoá sao mà nỏ khó quá. Nào nợ khủng 86.000 tỉ đồng của Vinashin, nào bau xit chưa sản xuất chi bao nhiêu mà đã kêu lỗ đòi không trã VAT, không trã thuế môi trường v.v.. Nên trong khi chờ đợi lên CNCS, nhà nước đề nghị toàn dân một thời kỳ quá độ (chưa ấn định thời gian là bao lâu, vì NN tính chưa ra, kể cả thiên tài toán học Ngô Bảo Châu) đồng thời NN cho xã hội hoá những gì tốn kém như giáo dục, y tế. Nhưng 20 năm qua xã hội hoá giáo dục thế nào, mà các trường ngoài công lập vừa họp lại kêu khổ, và đang tính chuyện bán trường giống như bên BDS. Bên y tế, thì các bệnh viện tư cũng đang rục rịch giống như các trường ngoài công lập. Tiền bạc bây giờ kiếm ăn khó khăn, có bệnh hoạn đành trở về bệnh viện công. Xem ra xã hội hoá, sau một thời gian thữ lữa, cũng không phải là giãi pháp tối ưu cho giai đoạn quá độ tiến tới CNCS. Bây giờ, ta thử bắt chước Las Vegas, Mỹ, cho mở casino, và bắt chước Mỹ lảm kỹ nghệ tình dục. Các báo điện tử hình như đã đi tắt đón đầu, vì ngày nào cũng cỏ vài bài về sex, mà NN ta chả cấm đoán gì cả.
DƯƠNG QUANG THIỆN -- 20/3/2014
LÃNH ĐẠO KIỂU CÀ GIỰT TẠI VIỆT NAM
VN cũng lạ thiệt. Lãnh đạo ta làm việc theo kiểu cà giựt. Khi có một chiếc cầu treo đâu đó bị lật, vô số người chết, thì lánh đạo ta ra lệnh rà soát tất cả các cầu treo xem độ an toàn ra sao. Còn sau đó chương trình kế hoạch sữa chữa trong tương lai ra sao bạn sẽ không hề biết cho tới khi một cái cầu treo khác lại bị lật.
Đùng một cái, một ông bác sĩ thẫm mỹ nào đó giãi phẩu làm chết một phụ nữ, rồi đem vất xác nạn nhân đâu đó. Thế là các phường trong nước ra chiến dịch rà soát các giấy phép thẫm mỹ, kết quả là phần lớn các bác sĩ thẩm mỹ đều làm chui, không giấy phép. Người ta làm việc thế nào bây giờ xãy ra như thế. Và giới trí thức y tế xem ra chã khá hơn gì bọn dốt học.
Bây giờ, đùng một cái, chánh phủ Nhật Bản báo cho VN ta biết là công ty của họ đã lại quả cho các "ông" (không phải đồng chí đâu nhé) trong ngành đường sắt 18 tỉ đồng. Thế là hằng loạt các ông lãnh đạo trong ngành đường sắt phải ngưng làm việc chuyên môn của mình, ngồi vào bàn mà làm kiểm điểm trong 2 tuần lễ, viết báo cáo. Không nghe thấy thanh tra vào cuộc, cái bộ phận của ông Trần Văn Truyền với cái biệt thự khủng ở miền Tây đó mà!!!
Nói tóm lại lãnh đạo VN làm việc theo kiểu cà giựt theo biến cố xãy ra.
DƯƠNG QUANG THIỆN -- 26/03/2014
NGUYỄN CHÁNH TÍN VÀ CHUYỆN LÙM XÙM CỦA ÔNG TA
Hình như ngày hôm nay, 28/3/2014, chuyện lùm xùm của diễn viên gạo cội Nguyễn Chánh Tín (NCT) sắp đến hồi kết thúc. Chi cục thi hành án Q.10 đã ra quyết định thi hành án, buộc ông Nguyễn Chánh Tín phải bàn giao ngôi nhà cho Ngân hàng Phương Nam. Không biết lần này người ta có dứt khoát hay không trong việc thi hành án.
Thiện mỗ, không biết có gì để nói không, khi Thiện mỗ chả phải là fan của ông Tín, và cũng chã có ân oán giang hồ chi với ông ta mà phải lên tiếng. Thế nhưng, Thiện mỗ thấy ngứa ngáy thế nào ấy, nên đành viết thôi. Chỉ có điều, Thiện mỗ không có mục tiêu rõ ràng nhất quán sẵn trước cho bài viết, cho nên Thiện mỗ sẽ viết lần dựa theo sự đưa đẫy của tình hình, của phạm trù dòng văn. Thiện mỗ là dân kỹ thuật, bây giờ về già lại đua đòi "viết văn", cho nên các bạn thông cảm nhé.
Câu chuyện bắt đầu như thế này. Không biết ngày nào, thình lình trên báo chí đăng tin là diễn viên gạo cội Nguyễn Chánh Tín (người thủ vai chính trong phim tình báo nổi tiếng "Ván bài lật ngửa") sắp sữa bị tống ra khỏi nhà, vì bị ngân hàng siết nhà. Nghe mà thấy xót xa cho thân phận của một con người nghệ sĩ khi về già. Tiếp theo là màn kêu gọi bà con giúp đở ông Tín của "táo quân" Chí Trung. Thế là người hâm mộ ùn ùn gởi tiền biếu tặng, nghe nói lên đến 600 triệu đồng.
Sau một thời gian cám cảnh ngắn ngủi, người ta mới tìm hiểu lý do vì sao cớ sự thế nào mà ông Tín phải bị cho ra đường ở. Ông ta phân trần trong báo chí rằng: ông ta có mở một hãng phim, ông ta vay tiền ngân hàng 8,5 tỉ để làm phim Dòng Máu Anh Hùng (DMAH). Phim này tốn vào khoảng 1,5 triệu đô, nghĩa là 30 tỉ đồng VN. Khi phát hành phim, thì bị người ta ăn cắp bãn quyền ở ngoại quốc, nên doanh thu phát hành ở ngoại quốc không khả quan, coi như phá sản. Nợ gốc và lãi ngân hàng không trả được, nên lên đến 10,50 tỉ đồng. Và điều kỳ cục là phim DMAH được sản xuất cách đây 10 năm, mà hậu quả nay mới lòi ra. Nói tóm lại, ông NCT cho rằng việc sản xuất DMAH, bị ăn cắp bản quyền đã dẫn ông ta đến vở nợ, phá sản. Thật tội nghiệp cho ông ta. Nghe như thế ai lại không mũi lòng.
Nhưng sự đời, nó thế mà không phải là thế. Trong một buổi than thở với báo chí, NCT đã trách móc diễn viên Ngô Thanh Vân (NTV) là vô ơn. Thế là, trong Facebook của mình, NTV đã viết như sau: "Phim Dòng máu anh hùng kinh phí 30 tỷ, chú bỏ ra 8 tỷ, vậy còn 22 tỷ ở đâu ra? Thì tụi cháu bỏ ra chứ ai đâu mà ra. Từ 8 tỷ chú nợ thành 10 tỷ, vậy từ 22 tỷ, tụi cháu sẽ nợ thành 27,5 tỷ rồi, chú mất nhà thì chắc tụi cháu mất mạng luôn rồi.
Thật ra, như mình biết, phim Dòng máu anh hùng, kịch bản là do Johnny Trí Nguyễn và anh trai Charlie Nguyễn viết. Khi thực hiện cũng do Charlie Nguyễn làm đạo diễn và Johnny làm chỉ đạo võ thuật với ekip Chánh Phương phim do vợ chồng anh Jimmy Nghiêm làm giám đốc, vậy xin hỏi chú Chánh Tín ở vị trí nào? Có chăng cũng chỉ dừng lại ở vị trí nhà đầu tư với số vốn vay mượn 1/4 của tổng kinh phí mà thôi. Vậy chú có giúp ích gì cho phim Dòng máu anh hùng hay tạo dựng 2 tên tuổi Ngô Thanh Vân và Johnny Trí Nguyễn mà chú nói trên báo chí rằng nhờ chú đưa tụi nó lên... Còn chú, sau Dòng máu anh hùng, vì tức chí cũng tách ra làm phim Suối oan hồn & Ngôi nhà bí ẩn... Nói thật, chú là một diễn viên giỏi nhưng chỉ là một đạo diễn xoàng. Phải đính chính lại rằng chú Tín nợ nần vì không có thực tài làm phim chứ không phải vì Dòng máu anh hùng (Chánh Phương film đã hoàn trả đủ lại số tiền chú đã đầu tư vào Dòng máu anh hùng), nên chú đừng trách móc mấy đứa cháu tội nghiệp nó, làm người ta hiểu lầm."
Như vậy, qua lời của NTV, thì ông NCT (1) đã thu hồi lại số tiền đầu tư 8 tỉ trong DMAH, (2) phim DMAH không phải là sản phẩm của ông NCT, nên chuyện thất bại trong phát hành phim DMAH không thuộc phần ông phải gánh vác, thế mà ông bảo là vì DMAH mà ông bị phá sản, trái với lời khẳng định của NTV: "Phải đính chính lại rằng chú Tín nợ nần vì không có thực tài làm phim chứ không phải vì Dòng máu anh hùng (Chánh Phương film đã hoàn trả đủ lại số tiền chú đã đầu tư vào Dòng máu anh hùng)".
Ngoài ra, trong cuộc phân trần với báo chí, khi bị hỏi là NCT có nhờ chánh quyền Mỹ can thiệp hay không về việc bản quyền phim DMAH bị đánh cắp, thì NCT trả lời như sau: "Tôi có kiện đó chứ. Tôi bay sang tới Mỹ để tìm hiểu và chuẩn bị mọi thủ tục cho việc đòi lại thiệt hại từ việc đứa con tinh thần của mình bị ăn cắp trắng trợn. Tuy nhiên, lúc đó FBI có khuyên tôi nên suy nghĩ kĩ rằng nếu ông đi kiện thì sẽ tốn đến 500.000 USD án phí mà nếu có bắt được đứa ăn cắp, nếu nó "có tóc" thì có thể đền chút ít cho ông còn xui dính ngay đứa nghèo xơ xác thì lấy tiền đâu ra mà đền. Nó vô tù còn ông thì cũng bị mất luôn cả trăm ngàn đô la. Tôi chỉ biết ngậm trái đắng mà quay về Việt Nam với món nợ ngày càng sinh lãi cao từ phía ngân hàng." Một bác sĩ Nguyễn Thùy Trang nào đó khi đọc phân trần trên của NCT đã viết: "Đây là câu chuyện hết sức hoang đường mà Nguyễn Chánh Tín đưa ra. Thứ nhất là FBI (Cục điều tra liên bang Hoa Kỳ) KHÔNG làm công việc điều tra những vụ kiện về bản quyền. Tất cả những vụ kiện tụng về bản quyền đều do hệ thống tòa án điều hành." Đúng thế. Tới đây, ta có thể kết luận là NCT không trung thực, đã nói dối với người hâm mộ, nghĩa là xem thường người hâm mộ và bạn đọc, cũng như bịa đặt để gây thương cảm.
Theo Thiện mỗ suy nghĩ: Các nghệ sĩ, ca sĩ, "hét sĩ" thường họ sống trong một thế giới ảo, tương tự như các nhà tu hành, các linh mục hoặc các sư sãi, họ sống trong một thế giới tâm linh hoàn toàn khác với thế giới thực tế, chạy theo tiền bạc là chính. Do vậy, khi họ thoát khỏi thế giới ảo của họ đi vào thế giới thực tại tiền bạc, nên họ mới gặp nạn. Ở Mỹ chẵng hạn, bao giờ cũng có một ông bầu, bà bầu (ta gọi là coach) lo mọi việc đụng tới tiền bạc cho đám diễn viên Hollywood, hoặc cho đám cầu thủ bóng đá. Còn ở đây, ông NCT tưởng cái ánh hào quang diễn viên của ông ta là số dzách nên mới đưa mình ra mở công ty phim, mà không biết nghiệp vụ nghề ngỗng ra sao. Nghe nói là trước giải phóng ông ta học luật, thì phải rành những luật lệ liên quan đến tiền bạc. Nghe cái chuyện ông đi vay tiền, thế chấp, rồi bán cầm cố, làm thế nào mà đi đến tình trạng rối như canh hẹ, để rồi bảo là ngân hàng lừa ông ta mà không trưng ra một bằng chứng, hoặc là bị gài bẫy. Ông ta đi vào cái thế giới tiền bạc mà không có luật sư cố vấn hoặc một coach biết nghiệp vụ lo đở đần mọi việc liên quan đến tiền bạc. Nói tóm lại, mỗi nghề nghiệp cỏ những chuyên môn đặc biệt của nó, và phải được đào tạo có bài bản. Ta không thể nhãy vào một ngành nghề mà ta chưa hề được đào tạo, huấn luyện. Nếu lòng tham lôi cuốn vào một sự việc như thế, thì vỡ mồm là cái chắc trong tầm tay.
Tới đây, ta có thể kết luận việc phá sản của ông NCT không phải do phim DMAH mà ra, như theo lời bảo của NCT, mà do những phi vụ gì đó mà NCT không thể cho bà con hâm mộ biết.
Người hâm mộ đang phân vân có nên tiếp tục ra tay giúp đở NCT hay không, và nghe tin đồn một nhóm mạnh thường nào đó dự định mua lại căn nhà để cho NCT ở suốt đời, thì đùng một cái có người cho phát tán một băng ghi âm một cuộc nói chuyện giữa NCT và vợ của một ông "anh kết nghĩa" của NCT, nay đã qua đời. Hồi thời sanh tiền, ông anh kết nghĩa đã cầm cố cái nhà mình đang ở tại ngân hàng Phương Nam (lại cái ngân hàng này), để vay 1,250 tỉ để cho NCT làm phim. Tới giờ đó đến nay NCT không trã lại tiền nên tiền vốn và lãi nay lên đến 2 tỉ, và ngân hàng bắt đầu phát mãi căn nhà, và gia đình 9 người cũng đang chuẫn bị ra đường ở. Ông NCT bảo rằng ông anh kết nghĩa đã hùn hạp làm ăn, nay hãng phim lỗ, thì ráng mà chịu. Nghe mà "tức cành hông". Khi ông NCT hùn 7,5 tỉ làm phim DMAH với đám con cháu, và phim bị lỗ, mà đám con cháu đã trả toàn bộ tiền hùn hạp, thì ông NCT nghĩ thế nào việc ông đối xữ ông anh kết nghĩa. NCT là một nghệ sĩ, thuộc loại sĩ, loại trí thức mà sao suy nghĩ trí trá bất nhẫn. Ông NCT bảo ông anh kết nghĩa đã hùn hạp làm ăn, thì phải biết lời ăn lỗ chịu. Việc này thì ai lại không biết. Nhưng có gì bảo đãm lời nói của ông NCT là đúng sự thật. Theo Thiện mỗ, thì có thể chứng minh một cách dễ dàng. Ông NCT có một công ty phim, thì theo luật định ông ta phải làm kế toán. Ngày ngân hàng trao tiền cho ông anh kết nghĩa, thì ông này trao tiền NCT, và ông NCT phải ghi vào sổ sách. Chỉ cần xem số tiền này, 1,250 tỉ, ghi vào mục nào. Nếu ghi vào mục tài sản cổ đông góp vốn thì là số tiền hùn hạp. Còn nếu ghi vào mục công nợ người khác (tỉers) thì là tiền vay, phải trả lãi hằng năm. Chỉ cần kiểm tra các mục vào, thì biết là hùn hạp hay không, chứng minh lời nói của NCT có khả tín hay không.
Cuối cùng, là việc ông NCT đem thế chấp chấp căn nhà mình đang ở với ngân hàng Phương Nam, vay 8,5 tỉ nói là để đầu tư vảo bộ phim DMAH. Theo nguyên tắc, ông NC T cũng đã biết rõ là khi vay thế chấp như thế thì khi đáo hạn mà không thanh toán tiền gốc và lãi, thì căn nhà sẽ bị đem đi phát mãi. Khi biết mình phá sản không trả nỗi số tiền gốc và lãi lên đến 10,5 tỉ, NCT đã đồng ý bán căn nhà thế chấp với giá 10,5 tỉ cho ngân hàng Phương Nam. Giấy tờ đã làm xong, theo nguyên tắc phãi trả nhà cho ngân hàng, thế mà ông NCT và gia đình vẫn không chịu trả nhà từ... 4 năm nay, kháng cáo lên kháng cáo xuống, nại đủ thứ lý do nào là bệnh nặng, nào là lo chuyện định cư của cậu con trai ở Canada, những lý do hết sức vô duyên. Theo Thiện mỗ, ông NCT là một trí thức, việc tôn trọng pháp luật, việc tôn trọng các điều khoản hợp đồng kinh tế tài chính đã ký kết là quan trọng, thế mà ông ta đã xem thường. Tinh thần thượng tôn pháp luật không có.
Nói tóm lại, hình như ông NCT xem thường mọi người, mọi cơ quan nhà nước, mọi thứ đạo lý làm người thì phải. Có lẽ, ông nghì rằng mình là một diễn viên gạo cội, nên phải có một luật lệ đặc biệt dành cho ông ta. Luật lệ gì thế, thì xin hỏi ông ta.
Tới đây, xin kết thúc câu chuyện, mà không kết luận gì cả. Chuyện của ông Tín làm thì ông tự giãi quyết lấy. Giáo dục là gì? Tôi thường bảo giáo dục là cách dạy cho con người ta giải quyết vấn đề. Ông Tín dính vào vụ liên quan đến tiền bạc, mà chưa được giáo dục, thì ông phải tìm ai đó dạy cho ông cách giãi quyết vấn đề liên quan đến tiền bạc, chả có ai có thể thay thế ông Tín giải quyết vấn đề. Tục ngữ Đức có câu: "Wie man sich bettet, so liegt man", tạm dịch là "Chúng ta dọn giường thế nào, thì ráng mà ngủ thế nấy". Nếu ta muốn nằm đất thì ráng mà chịu đau lưng.
Thứ Năm, 27 tháng 3, 2014
CÁI NGU CỦA PHÁP VÀ MỸ
CÁI NGU CỦA PHÁP VÀ MỸ
13 Sunday Oct 2013
Posted by Live Our Dreams in DƯƠNG QUANG THIỆN
Nói tóm lại, hai cái ngu của tụi Pháp và tụi Mỹ cộng lại làm cho VN mất đi 50 năm (1945-1995) phát triển, trong khi các nước khác có chừng nớ năm để bành trướng, và kết quã là làm cho tướng Giáp trở thành nổi tiếng, thành một tướng huyền thoại của VN. Ông Giáp đã từng tuyên bố: “nếu không có chuyện chiến tranh, thì tôi chỉ là một ông giáo sữ”.
Thế mà có người không thấy cái ngu của Pháp Mỹ, mà cứ đổ tội cho việc nghèo nàn và lạc hậu hiện thời của VN là do hai ông Hồ và Giáp mà ra. VN chỉ mới ngóc đầu từ 1996 trở đi, nghỉa là chỉ mới 17 năm, vậy mà đem so sánh với những nước có đến 68 năm bình yên để phát triển. Và những người này tự xưng là người trí thức. Buồn thay.
Chắc mấy ngày qua các bạn đã thầm đưa tướng Giáp về cõi vĩnh hằng.Không hiểu sao tôi lại có một suy tư viết ra đây để bà con đọc xem.
Chắc mấy ngày qua các bạn đã thầm đưa tướng Giáp về cõi vĩnh hằng.Không hiểu sao tôi lại có một suy tư viết ra đây để bà con đọc xem.
Tôi thì tôi cho rằng thằng Pháp sao nó ngu như thế khi VN đòi độc lập vào năm 1945, (mà thằng Pháp ngu nhất là tướng De Gaulle) nhưng Pháp không chịu trao trã độc lập ngay liền. Nước Pháp bị Đức chiếm đóng trong 4 năm từ 1940 đến 1944, bị chia cắt làm đôi, miền Nam nước Pháp cai trị bởi một chính phủ bù nhìn, Pétain. Còn De Gaulle lưu vong qua Anh kêu gọi kháng chiến hằng tuần trên đài BBC. Quân đội Pháp đóng ở Algerie gồm toàn lính đánh thuê Phi châu, bị cầm chân bởi tướng Đức, Erwin Rommel.
Bạn thử so sánh hình ảnh của Pháp với hình ảnh cụ Hồ lui về Việt Bắc với quân của tướng Giáp. Cụ Hồ đã tiến hành kháng chiến trong lòng đất nước, còn Pháp thì kháng chiến ở hãi ngoại chủ yếu đánh võ mồm, giao cho Anh, Mỹ, LX quật thằng Đức Quốc Xã, do đó, sau khi ĐQX đầu hàng, hội nghị Yalta chĩ gồm Churchill (Anh), Roosevelt (Mỹ), và Staline (LX), không có De Gaulle (Pháp). Nếu nước anh (Pháp) bị ngoại quốc (ĐQX) xâm chiếm cai trị trong nhiều năm trời, thì anh (De Gaulle) phãi hiểu cái nhục mất nước, thì khi một nước thuộc địa (mà anh ăn cướp từ nhiều thập kỷ qua) đòi độc lập, thì anh không chịu trao trã độc lập cho người ta, anh không hề so sánh cái nhục mất nước của anh so với cái nhục mất nước của dân Việt.
Rốt cuộc cái ngu của anh là đã sai tướng Leclerc qua chiếm lại Đông Dương, buộc lòng tướng Giáp phãi ra tay đánh cho anh thất điên bát đão ở trận kết thúc Điện Biên Phủ. Cái ngu của thực dân Pháp (mà De Gaulle từng tuyên bố ông ta là hiện thân của nước Pháp) là đã không trao trã độc lập cho VN ngay từ đầu, cho nên mới có chuyện một ông thầy giáo sữ trở thành một tướng tài ba giỏi nhất thế giới. Nếu như De Gaulle cho VN độc lập ngay từ đầu, thì đâu mất 9 năm vất vã, dành độc lập, để cho các nước khác phát triển kinh tế. Đó là cái ngu thứ nhất (của Pháp).
Tiếp theo là cái ngu thứ hai, là của ba thằng Mỹ. Nếu thằng Mỹ để cho hiệp định Geneve đươc thi hành bình thường, thì VN đã được thống nhất vào năm 1956, chứ không phãi chờ 20 năm sau mới được thống nhất, giang sơn qui về một mối. Cái ngu của thằng Mỹ là do tay tổng thống Mỹ Truman bắt đầu. Truman là người công giáo, bị hồng y Spellman giật dây, nên Ngô Đình Điệm được đưa về năm 1955, để bắt đầu phá hoại hiệp định Genève. Để chứng minh cho cái ngu của mình, Mỹ đề ra cái thuyết domino (do công ty nghiên cứu chiến lược Rank Corporation), theo đấy, nếu miền Nam VN sụp đổ thì tất cả vùng Đông Nam Á sẽ bị nhuộm đỏ bởi chủ nghĩa CS.
Thế là Mỹ bắt đầu can thiệp vào VN từ tháng 7/1965. Và cũng vì thế là, tướng Giáp bị lôi cuốn vào cái vòng cương toã này để trở thành huyền thoại trong những chiến dịch Mậu Thân, chiến dịch ĐBP trên không, cuối cùng là chiến dich giãi phóng miền Nam 1975. Cái ngu của tụi Mỹ làm cho VN mất đi 20 năm phát triển. Ngoài ra, từ 1975 đến 1995 Mỹ tiếp tục cái ngu của mình, bằng cách cho cấm vận VN trong suốt 20 năm, về mặt kinh tế, chã làm ăn chi được.
Nói tóm lại, hai cái ngu của tụi Pháp và tụi Mỹ cộng lại làm cho VN mất đi 50 năm (1945-1995) phát triển, trong khi các nước khác có chừng nớ năm để bành trướng, và kết quã là làm cho tướng Giáp trở thành nổi tiếng, thành một tướng huyền thoại của VN. Ông Giáp đã từng tuyên bố: “nếu không có chuyện chiến tranh, thì tôi chỉ là một ông giáo sữ”.
Thế mà có người không thấy cái ngu của Pháp Mỹ, mà cứ đổ tội cho việc nghèo nàn và lạc hậu hiện thời của VN là do hai ông Hồ và Giáp mà ra. VN chỉ mới ngóc đầu từ 1996 trở đi, nghỉa là chỉ mới 17 năm, vậy mà đem so sánh với những nước có đến 68 năm bình yên để phát triển. Và những người này tự xưng là người trí thức. Buồn thay.
Thứ Bảy, 15 tháng 3, 2014
TT - 75 tuổi, đã qua mốc hưu trí những 15 năm, là tuổi của nghỉ ngơi vui cùng con cháu, an nhàn uống trà đọc sách, nhất là với một người đã làm việc thật nhiều, cống hiến thật nhiều cho khoa học, cho xã hội như ông Dương Quang Thiện.
Ảnh: Tự Trung |
Ấy vậy mà không, những ngày ở tuổi 75 này ông lại đang vùi mình vào một dự án lớn, lớn nhất cho cả đời mình: "Viện đào tạo quản trị bằng công nghệ thông tin (CNTT) là ước nguyện của tôi và bà đầm (vợ ông người Pháp - PV), ở đó CNTT sẽ được dạy ở trình độ cao hơn và căn bản hơn là việc viết phần mềm. Mọi việc trong xã hội từ hành chính tới y tế, giáo dục, sản xuất phải được quản trị bằng hệ thống cơ sở dữ liệu thống nhất, khi đó mọi việc sẽ nhanh chóng, rõ ràng, minh bạch hơn, xã hội cũng vì thế mà tốt đẹp hơn. Tôi đang viết dự án, biên soạn những gì sinh viên cần được học. Về vật chất cũng đã chuẩn bị được căn bản: là gia sản của tôi và bà đầm, cộng với số tiền bán căn biệt thự này...".
Ông trình bày rành rẽ từng bước đi của lộ trình trước vẻ mặt bất ngờ của khách đến thăm, những người vốn chỉ dự định đến hỏi thăm sức khỏe và hơn nữa, an ủi ông trước một mất mát lớn trong đời.
Giấc mơ một đời
"Chúng tôi cần khoảng năm năm để xây dựng dự án và chừng mười năm đào tạo như thế, các chuyên viên này sẽ liên kết lại tạo ra một xã hội điện tử..."
ÔNG DƯƠNG QUANG THIỆN
|
Những ngày sau đó, hộp thư điện tử của tôi luôn xuất hiện những lá thư mang tên Dương Quang Thiện: thư ngỏ mời cộng sự, đề nghị thành lập lại nhóm SAMIS đã một thời lừng lẫy với các sách và dự án CNTT của ông, lộ trình dự kiến, những ý kiến phản hồi từ các thành viên, bài báo ghi lại ý kiến của Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân "Thiếu tổng công trình sư cho các đại dự án CNTT" trong diễn đàn cấp cao CNTT...
Hào hứng và chắc chắn, dự án viện quản trị cứ tiến từng bước một. Những người đầu tiên tình nguyện đầu quân không phải ai xa lạ: là Đào Thị Hằng, cô học trò giỏi toán và đầy ước mơ của chương trình Vì ngày mai phát triển năm nào, nay đang làm luận án thạc sĩ tại Pháp; là Nguyễn Thanh Liêm, Lê Nguyễn Minh Quang, Lê Thị Thanh Mai... - những "anh hai, chị hai" của đại gia đình Vì ngày mai phát triển. Và mọi người cùng bảo: "Chúng tôi đang chờ thêm những người giỏi hơn chúng tôi nữa".
Nhiệt tâm có thừa và lo ngại, ưu tư cũng không ít. Lo ngại vì mong muốn và mục đích của ông quá lớn, quá lớn so với mặt bằng giáo dục đại học đang gặp không ít vấn nạn hiện nay. Ưu tư vì tuổi ông đã cao và người kế tục biết đã kịp đủ tài, đủ tâm, đủ lực? Cả lo lắng nữa vì đã hơn một lần ông gặp phải người nuốt lời làm tiêu tan bao tâm sức, công của đầu tư... Nhưng những suy tính có thể làm chùn chân ấy hình như chỉ là của riêng những người xung quanh, còn ông Dương Quang Thiện vẫn ung dung mỗi ngày với những bước tiến mới của dự án, thỉnh thoảng lại gửi đi một bài báo nhỏ với những chứng minh đầy thuyết phục của một xã hội điện tử, quản trị hệ thống, như là việc tất yếu mình phải làm.
Như là cỏ vẫn xanh rờn trong sân nhà ông vậy.
Lần tìm trong những chồng báo lưu ố vàng, chợt phát hiện những bài báo mang tên Dương Quang Thiện hừng hực nhiệt huyết với việc đầu tư có hệ thống cho giáo dục, chống chảy máu chất xám, lập lại trật tự xã hội bằng quản trị hệ thống, lập cơ sở dữ liệu điện tử toàn quốc... từ những năm đầu thập niên 1970, khi đất nước còn đang ngập chìm trong chiến tranh, bom đạn. Những bài báo khi ấy đã được nhiều người ủng hộ và cũng không ít người chỉ trích cho là viễn mơ. Quả là viễn mơ thật khi so sánh với bối cảnh Việt Nam lúc ấy, người người chỉ có một giấc mơ: im tiếng súng, hòa bình.
"Ước mơ về một xã hội hiện đại, văn minh, phát triển của tôi đương nhiên chỉ có thể song hành với hòa bình. Và tôi đã mang theo nó khi lên máy bay du học rồi lại lên máy bay về nước" - ông Dương Quang Thiện nói về chàng thanh niên Dương Quang Thiện như là chàng trai ấy đang hiện diện trước mặt mình, như là không có khoảng cách nửa thế kỷ đã trôi qua.
Chàng trai ấy từng mang nặng mặc cảm khuyết tật và nghèo khó đến trường, để rồi lấy lại được sự tự tin nhờ lời động viên và sự giúp đỡ âm thầm của một thầy giáo. Chàng trai ấy lên đường du học bằng cả gia tài của mẹ chỉ đủ mua một tấm vé máy bay và lời dặn: Phải thành công, phải trở về và không được lấy vợ đầm. Chàng đã thành công, đã trở về, mang theo cả một cô đầm tình nguyện làm một người vợ Việt Nam và mang theo một ước mơ: xây dựng xã hội điện tử ở Việt Nam, bắt đầu từ việc đào móng. Từ ấy đến nay đã gần 50 năm.
Những mầm xanh
"Chúng tôi sẽ có nhiều cấp độ đào tạo: cao đẳng, đại học, sau đại học, sẽ liên kết với một số viện quản trị, đại học nước ngoài để mời giảng viên thỉnh giảng hoặc đào tạo từ xa. Chúng tôi không đào tạo kỹ sư CNTT mà là những kỹ sư, chuyên viên có thể sử dụng CNTT như một công cụ quản trị, xây dựng hệ thống thông tin trong chuyên môn của mình, là sản xuất, là quản lý hành chính, kinh tế, y tế, giáo dục. Cần khoảng năm năm để xây dựng dự án và chừng mười năm đào tạo như thế, các chuyên viên này sẽ liên kết lại tạo ra một xã hội điện tử..." - ông Dương Quang Thiện thản nhiên tính toán và tự tin với dự án của mình hơn bao giờ hết.
"Và ông sẽ bán cả căn nhà này sao?". Ông cười xòa: "Tôi có một mình, ở đâu lại không được. Viện quản trị thành lập sẽ xây dựng cả ký túc xá cho sinh viên và cả nhà cho các giáo sư thỉnh giảng. Tôi vô đó ở luôn càng tốt".
Ông Dương Quang Thiện đã sẵn sàng, chỉ chờ các cộng sự nữa là khởi động. Ông cười nhẹ tênh vậy mà khách chỉ đến thăm thôi lại nghe tiếc ngẩn ngơ. Dễ gì tìm được căn biệt thự tươi tắn màu hoa cỏ, yên tĩnh đến thế giữa thành phố này. Mà căn nhà xây theo kiến trúc gôtich vừa cổ điển vừa hiện đại lại do đích thân bà đầm thiết kế, thấm đẫm bao kỷ niệm, chứng kiến bao vui buồn của ông bà.
"Vừa dốc hết tiền xây xong nhà thì ngày 30-4-1975 tới, bà đầm gật đầu khi tôi đề nghị ở lại, rồi bà bắt đầu những ngày tập ăn bo bo" - ông lại cười, mắt lấp lánh hình bóng bà đầm. Từng món đồ đạc trong nhà cũng mang màu thời gian như thế, bao nhiêu chăm chút giữ gìn của bà đầm để tiết kiệm tiền đầu tư cho các chương trình "lấy giáo dục nuôi giáo dục". Nếu mai đây mọc lên một tòa cao ốc thì còn đâu mảng cỏ xanh, còn đâu dấu bà đầm... Nhìn thấy ánh mắt ấy, ông lại cười xòa, phẩy tay: "Giữ nó thì viện quản trị sao thành lập được, đã có người đến xem và trả giá rồi".
Ừ thì cỏ xanh trong khoảnh sân này sẽ phải nhường chỗ cho những mầm xanh hơn mà ông sẽ ươm ở viện quản trị vậy.
Dịch vài bài báo gửi cộng sự
Những ngày này, ngoài thời gian xây dựng dự án, ông lại "chiết" một ít phút dịch vài bài báo trên các tờ báo Pháp mà ông đọc hằng ngày, gửi thư cho cộng sự. "Ai muốn dữ liệu cá nhân của bạn?", "Xí nghiệp tự quản", "Hiện tượng di dời cơ sở sản xuất", "Con đường của khủng hoảng kinh tế"... những bài báo cung cấp thêm góc nhìn, thêm kiến thức và quan trọng hơn nữa, thêm nhiệt tâm. Nhiệt tâm đã được nuôi dưỡng từ suốt một đời ông Dương Quang Thiện và giờ đây được truyền sang các cộng sự trẻ của ông.
|
Diễn đàn “Làm thế nào thực hiện thông điệp của Thủ tướng?”
Tin học hóa đúng cách sẽ có minh bạch
TT - Tham gia hiến kế cùng diễn đàn, ông Dương Quang Thiện, kỹ sư điện toán IBM đầu tiên của VN, đề cập đến một khía cạnh trong thông điệp của Thủ tướng: “minh bạch hóa” với giải pháp cụ thể.
Ông Dương Quang Thiện - Ảnh: Tự Trung |
Trước khi đi vào giải pháp cho minh bạch hóa, cần phải xác định rõ quyết tâm này: xóa bỏ những “hội chứng bí mật”, xóa bỏ cái lệ làm hai hệ thống sổ sách để đối phó, ăn gian thuế, xóa bỏ những ngụy biện để bảo vệ việc tù mù sổ sách, tạo điều kiện cho các vấn nạn tham nhũng, lũng đoạn...
"Minh bạch là việc muốn hay không, chứ không phải việc không thể làm được. Giải pháp của tôi là phải tin học hóa toàn bộ hoạt động của quốc gia, trong ấy việc tin học hóa xí nghiệp quốc doanh cũng như tư nhân là điểm mấu chốt"
Dương Quang Thiện
|
Giải pháp của tôi là phải tin học hóa toàn bộ hoạt động của quốc gia, trong ấy việc tin học hóa xí nghiệp quốc doanh cũng như tư nhân là điểm mấu chốt. Hiện giờ VN có khoảng 500.000 xí nghiệp và cơ quan hành chính nhà nước đã được nối mạng và được trang bị phần cứng đầy đủ, nhưng lại không có một hệ thống thông tin (HTTT) chính xác, hiệu quả giúp quản lý xí nghiệp. HTTT phần lớn không được xây dựng theo mô hình Enterprise resource planning (ERP) - hoạch định nguồn lực doanh nghiệp từ một cơ sở dữ liệu thống nhất như ở các nước tiên tiến.
Muốn xây dựng được HTTT như vậy, người thực hiện cần phải có hiểu biết sâu về chuyên môn của các cơ quan, xí nghiệp, cần biết về kế toán, tồn kho vật tư, công nợ khách hàng/nhà cung cấp, về khấu hao tài sản cố định, về lao động tiền lương, xử lý hóa đơn, khách hàng, quỹ tiền mặt và ngân hàng... Họ cần phải là phân tích viên + triển khai viên + kiến trúc sư tin học.
Vậy phải giải quyết thế nào? Nhân viên tin học của 500.000 xí nghiệp không thể đến trường nghe giảng kinh tế và IT, thì các môn kinh tế và IT phải về đến tay các nhân viên qua Internet, thông qua những lớp online theo phương pháp step-by-step (từng bước một). Với hạ tầng truyền thông là Internet, ta có cơ hội dạy cùng lúc cho một số lớn học viên từ các xí nghiệp cách làm thế nào tự tin học hóa việc quản lý sử dụng máy tính và tự thành lập một HTTT quản lý cho mình, với phí tổn hầu như bằng không...
Chúng tôi đã tạo ra được một nội dung cho mỗi môn học hình thành những modul của mô hình ERP. Sẽ có bảy môn học cốt lõi tương ứng với bảy modul ERP: (1) Order processing & sales (OPS) - Xử lý hóa đơn và bán hàng, (2) Inventory control (IC) - Tồn kho sản phẩm/vật tư, (3) Account receivable (AR) - Công nợ khách hàng, (4) Fixed Assets (FA) - Tài sản cố định, (5) Account payable (AP) - công nợ nhà cung cấp, (6) Cash & bank (CBK) - Tiền mặt & ngân hàng, (7) Payroll (PAR) - Lao động tiền lương.
Khi người học đã hiểu thấu phần kinh tế của modul, chúng ta bước qua dạy cách thực hiện chức năng kinh tế thông qua các chương trình phần mềm máy tính: thành lập những chương trình xử lý dữ liệu theo kiểu từng bước một, xong bước này tới bước khác. Khi đạt đến bước cuối cùng thì modul sẽ được đưa vào hoạt động.
Để giải quyết vấn đề này, nhóm chúng tôi đã và đang soạn những tập sách đặc biệt: một dành cho kiến trúc sư, một dành cho triển khai viên. Còn sách dành cho phân tích viên thì bộ sách Phân tích thiết kế các HTTT của Dương Quang Thiện đã khá đầy đủ và phát hành từ lâu.
Sau khi hoàn thành công trình “tin học hóa xí nghiệp”, chúng tôi sẽ tiếp tục soạn thảo các modul để “tin học hóa bộ máy quản lý hành chính”. Chúng tôi tin rằng khi các hoạt động đều được công khai và minh bạch, các tệ nạn sẽ khó tìm được chỗ đứng và cuộc sống của mỗi chúng ta sẽ tốt hơn rất nhiều.
DƯƠNG QUANG THIỆN
7 bước đã đi được 2 bước
Ông Dương Quang Thiện là người đầu tiên tạo nên những bước đi của công nghệ thông tin tại VN. Ông nổi tiếng với những bộ sách “gối đầu giường” của dân IT, nổi tiếng với phương châm sống “lấy giáo dục nuôi giáo dục”, với những năm tháng dài gắn bó với các chương trình học bổng “Vì ngày mai phát triển”.
Năm nay đã xấp xỉ tuổi bát thập nhưng ông không nghỉ ngơi. Mỗi ngày, ông và những cộng sự trẻ tuổi của mình (nhóm BIS) vẫn miệt mài với dự án phổ cập “tin học hóa các hoạt động xã hội”, mơ đến một ngày cuộc sống tốt đẹp hơn nhờ mọi hoạt động đều được công khai, minh bạch hóa (đọc thêm “Tôi cần 10 năm”, Tuổi Trẻ ngày 10-9-2012).
Trong bảy modul của mô hình ERP đề ra, hiện nhóm BIS đã thực hiện được đến modul thứ hai và đang sẵn lòng truyền giảng lại cho học viên đến từ các cơ quan, xí nghiệp. Theo ông Thiện, học viên sẽ được học phần lý thuyết (phần kinh tế), sau đó thực hiện thực hành những chương trình (phần IT), và như vậy họ sẽ là người thấu hiểu nhất hệ thống thông tin quản lý của mình được hình thành thế nào, hoàn toàn khác với việc sử dụng phần mềm ERP mua của nước ngoài.
Ông Thiện cho biết: để học và thực hành, modul dễ chỉ cần 2 tuần, cấp độ vừa cần 4-6 tuần, modul khó thì phải mất 12-20 tuần. Như vậy một học viên sẽ cần từ 12 tháng - 18 tháng là có thể học và thực hành xong toàn bộ hệ thống thông tin quản lý.
P.Vũ
|
------------------------------------
* Tin bài liên quan:
Thứ Năm, 13 tháng 3, 2014
Báo cũ (9). THAM NHŨNG VÀ TẬP ĐOÀN CÔNG CHỨC
THAM NHŨNG VÀ TẬP ĐOÀN CÔNG CHỨC
Tác giả có đôi điều:
Bài báo dưới đây mà bạn sẽ đọc là một bài báo cũ số 9, và cũng là số chót, mà Thiện mỗ viết cách đây 40 năm, vào ngày 23/02/1975, đăng trên báo Chính Luận, chỉ cách biến cố 1975, hơn 2 tháng. Bạn đọc xong bài báo này rồi đem so sánh hiện tình của nước nhà, sau 40 năm dưới mái nhà XHCN để rồi tự rút tỉa ra những kết luận thích ứng cho mình. Còn nay, tính đến nay 2014, người ta vẫn đang bàn đến bài trừ tham nhũng bằng cách bắt cán bộ kê khai tài sản. Bao nhiêu cán bộ sẽ kê khai, bao nhiêu không, ..Ai sẽ lo kiểm tra các bản kê khai này, thời gian xem xét sẽ bao lâu, khi nào thì xử các vụ án tham nhũng, ... Đây là những câu hỏi không biết ai sẽ trả lời. Thét rồi, người ta so sánh tham nhũng như những bãi cứt trâu, người ta cố tình kéo dài để chúng trở thành "cứt trâu để lâu hoá bùn". Bạn cố ráng mà vui vẻ với bụi cứt trâu bay trong không khí.
THAM NHŨNG VÀ TẬP ĐOÀN CÔNG CHỨC
Trong mấy tháng vừa qua, qua báo chí, TV, cũng như qua việc chứng kiến biểu tình (và chống biểu tình), chúng ta đã nghe và thấy nói quá nhiều về việc chống tham nhũng của cha Thanh và của TT Thiệu. Mỗi đàng chống tham nhũng mỗi cách. Còn đa số người dân thì đang chờ đợi một cái gì, tâm trạng giống như tâm trạng người đi xem đấu võ đài.
Người dân thì đã nếm mùi tham nhũng, từ việc đi lính đi tráng, từ việc xin xỏ giấy tờ hành chánh làm ăn, v.v.. Ai cũng biết có tham nhũng, và lẽ đương nhiên ai cũng muốn chống tham nhũng, đòi hỏi chánh quyền chống tham nhũng. Chính TT Thiệu đã bảo tham nhũng là "quốc nạn", đã cảnh cáo là ta có thể mất nước vì hoạ tham nhũng thay vì thất trận. Nếu TT Thiệu đã "tuyên bố một cách xanh rờn" như thế, thì tất cả chính quyền đã đả thông tư tưởng như TT đã nêu ra. Nghĩa là tóm lại: từ dân ngu khu đen cho đến giới chức chánh quyền, kể cả TT, ai ai cũng đồng ý (bây giờ gọi là nhất trí): là có tham nhũng, và phải chống tham nhũng để cứu nước vì nó là "quốc nạn", có thể mất nước như chơi.
Chưa bao giờ có một sự đồng lòng từ trên xuống như thế. Nhưng cái rắc rối nó lòi ra liền khi đặt những câu hỏi sau đây: ai tham nhũng, vì sao "người nớ" tham nhũng, làm cách gì "người nớ" về sau không thể tham nhũng, phải trừng trị ra sao, khi đúng là "ngườ nớ" tham nhũng.
Hiện giờ, chúng ta đang làm cái việc tố cáo những kẻ tham nhũng, rồi đòi hỏi phải trừng trị kẻ có hành vi tham nhũng. Nhưng ít ai chịu trả lời 2 câu hỏi: (1) vì sao có tham nhũng; (2) làm sao ngăn ngừa nạn tham nhũng. Hiện giờ, chúng ta đang làm cái công việc của một bà mẹ sáng ra thấy có đứa con đái dầm trên giường, đi tìm thủ phạm rồi lôi nó ra đánh một trận rồi thôi. Chả cần tìm hiểu vì sao nó đái dầm. Tự bảo trăng rằm thì trăng tròn, lớn lên thì sẽ hết đái dầm. Đối với hoạ tham nhũng người ta tự nhủ vận nước nó thế. Phải chờ cho hết thời mạt vận.
Trong chiều hướng đi tìm hiểu vì sao có tham nhũng, chúng tôi đã có lần đề cập đến vấn đề này trên mặt báo Chính Luận, với hai bài báo: "Tham nhũng và Dân tộc tính VN" và "Tham nhũng và Phụ Nữ VN". (1*) Hôm nay chúng tôi trở lại với vấn đề tham nhũng với khía cạnh khác: "Tham nhũng với tập đoàn công chức". Chúng tôi rất ý thức, bài báo này sẽ gây ra nhiều ngộ nhận, nhiều chống đối. Khi chúng tôi ngỏ ý viết bài báo này, thì nhiều người bạn ngăn lại bảo đừng đụng tới "ổ kiến lửa" này. Nhưng chúng tôi thiết nghĩ rằng: trong một cộng đoàn nào cũng có kẻ xấu người tốt. Phân tích cái xấu của một tập đoàn, không có nghĩa là chê trách, chống đối tập đoàn này, chẳng qua là muốn tìm hiểu căn nguyên của cái xấu này. Ở xã hội ta, loại người "mèo khen mèo dài đuôi" thì đầy dẫy, nên không ưa ai chỉ trích chê bai mình, dù biết rằng "dòi trong ruột dòi ra". Nếu có ông viện trưởng đại học nào đó có can đảm thú nhận trước công chúng trong một buổi diễn thuyết về những cái bê bối của đại học, thì liền bị ông bộ trưởng bộ QGGD xài xể bảo rằng "vạch áo cho người xem lưng", đâu có biết rằng cái áo mình mặc đã tả tơi từ lâu rồi, không cần vạch thì dân ngu khu đen cũng đã thấy cái lưng bê bối từ lâu rồi.
Chúng tôi cũng biết rằng "mía sâu có đốt, nhà dột có nơi", nói đến "tập đoàn công chức", chúng tôi xin minh định trước là chúng tôi không dám vơ đũa cả nắm. Chúng tôi không có ý nói tất cả tập đoàn công chức đều tham nhũng. Chỉ một phần nào thôi (2*).
Trong quá khứ, ông Phó phụ trách chống tham nhũng bảo rằng "nếu bỏ tù hết công chức tham nhũng thì lấy ai làm việc". Nói như thế, có nghĩa là mặc nhiên công nhận từ trên xuống dưới, ai ai trong chính quyền, trong giới công chức quân nhân (còn gọi "công quân cán cảnh", nghĩa là công chức, quân nhân, cán sự, cảnh sát) cũng đều có "máu mê tham nhũng". Gần đây, TT Thiệu đã hứa là làm sạch tham nhũng trong quân đội trong 1 tháng, làm sạch tham nhũng trong cơ quan công quyền trong 3 tháng. Nếu so sánh 1,2 triệu quân kể cả địa phương quân với 300.000 công chức, mà bài trừ tham nhũng trong quân đội chỉ mất 1 tháng, còn trong công chức mất 3 tháng, nghĩa là khó đến 12 lần, như vậy nạn tham nhũng trong công chức là khá trầm trọng. Ngoài ra, nếu ta biết trước đó, chính phủ đã gởi công chức xuống Vũng Tàu "học tập cách mạng" để phục vụ nhân dân, hữu hiệu hơn (nghĩa là bớt tham nhũng). Nếu đã dám chi 8 tỉ bạc, để cách mạng hoá công chức, rồi lại tuyên bố như trên, thì không nói ra, TT xem tập đoàn công chức là loại người phải ra công "tôi luyện" (roughneck).
Trước khi đi sâu vào vấn đề tham nhũng trong giới công chúc, chúng tôi nghĩ nên đặt hạn chế đối với vấn đề tham nhũng.
Theo chúng tôi nghĩ thì "chỉ ai có quyền, nắm quyền, mới có cơ hội tham nhũng". Một bà bán bánh bèo ngoài chợ, không thể tham nhũng vì bà ta không có cái quyền ảnh hưởng lên người nào cả. Cái "quyền" ở đây không giới hạn vào các "ông tai to mặt lớn", ngồi trên, vì đôi khi "có tiếng mà không có miếng". Một anh tuỳ phái ở một văn phòng bộ nào đó, một khi có cái "quyền chuyển hồ sơ" tận tay ai đó, hoặc có cái "quyền dẫn dắt cho vào gặp ông lớn" là đã có cơ hội tham nhũng. Anh tuỳ phái giữ một chức vụ rất nhỏ nhoi trong hệ thống hành chánh công quyền, nhưng không vì vậy mà anh ta không có cơ hội tham nhũng. Thành thử ta có thể kết luận sơ bộ một nguyên lý thứ nhất là: chỉ tham nhũng khi người ta có quyền, và quyền này không bắt buộc gắn liền vào một chức vụ. Cái quyền này nó mông lung lắm nhưng theo chúng tôi nghĩ nó giống như cái vòi nước (robinet), khi mở khi tắt. Người nào nắm cái quyền mở vòi nước hoặc đóng lại vòi nước, thì người ấy có cơ hội tham nhũng (3*). Nhà cháy, anh lính chữa lữa cầm vòi nước chữa cháy là đã có quyền trên đám cháy. Một ông tổng trưởng có cái quyền biết trước một hai ngày giá đường sẽ tăng (hoặc giá xăng dầu) thì ông ta có cơ hội tham nhũng kiếm được hàng tỉ bạc. Một anh lính hoặc cảnh sát quèn, nếu có quyền chụp mũ một anh dân lành là VC là có quyền tham nhũng. Thành thử, muốn biết trong hệ thống nào đó, chỗ nào sẽ xảy ra tham nhũng thì chỉ xem chỗ nào có "quyền mở đóng vòi nườc". (Bây giờ gọi là cơ chế xin-cho).
Tóm lại, là ông công chức nào nắm cái quyền gì đó, thì ông ta có cơ hội tham nhũng, nếu lương tâm của ông ta đội nón ra đi hồi nào không biết.
Đã từ lâu, người ta tự hỏi: vì sao công chức chánh quyền ngày càng tham nhũng. Người ta không trả lời, nhưng trong thâm tâm, người ta đã có câu trả lời: đó là vì công chức ĐÓI. Người xưa có câu: "Đói ăn vụng, túng làm càn". Vì đói sinh ra tham nhũng. Nhưng nếu ta hỏi tiếp. Vì sao công chức đói. Thì được trả lời rằng: đồng lương công chức là cố định, mà vật giá thì leo thang, lạm phát thì phi mã, v.v.. Nếu hỏi tiếp: vì sao vật giá leo thang, lạm phát phi mã. Thìbđược trả lời: là tại vì có chiến tranh. Bây giờ, ta hỏi ngược lại: nếu không có chiến tranh thì tham nhũng sẽ biến mất hay không. Người ta trả lời: nếu không có chiến tranh thì sẽ không còn tham nhũng.(4*). Chúng tôi không tin như thế. Nhìn về nước Do Thái có chiến tranh từ thời lập quốc đến nay, xem có tham nhũng hay không. Hay xem nước Ethiopie hoặc các nước Phi Châu không có chiến tranh (ngoài vài mống nổi loạn loe ngoe) thế mà tham nhũng quá trời. Nam Dương và Phi Luật Tân cũng thế. Thành thử, chiến tranh là một thành tố gây tham nhũng, nhưng không phải là một yếu tố quyết định. Nên ta phải tìm hướng khác để suy gẫm.
Ai cũng biết công chức đói meo, đồng lương không đủ sống. Rồi người ta đâm ra luyến tiếc cái thời vàng son, thời công chức "tối sâm banh sáng sữa bò". Bây giờ, vì đói công chức sinh ra tham nhũng. Muốn chống tham nhũng, thì phải tăng lương cho công chức. Mà tăng lương, thì giá cả bên ngoài rục rịch leo thang. Chúng ta lại trở về cái vòng luẩn quẩn không bao giờ chấm dứt được.
Để tránh tăng lương cho công chức, quân nhân, vì chỉ làm mồi cho gian thương lên giá, nên người ta tổ chức bán hàng rẻ cho quân nhân ở Quân Tiếp Vụ, và cho công chức ở Tổng Cục Tiếp Tế. Những chuyện bê bối ở TCTT thì ta nghe nói dài dài như chuyện dài nhân dân tự về. Nói tóm lại cuộc sống người công chức chả hồng tí nào.
Theo chúng tôi nghĩ, là chúng ta phải quan niệm lại vai trò của công chức. Người công chức là người cung cấp một dịch vụ nào đó cho người dân (chứ không phải làm cha thằng dân) đổi lấy một đồng lương nhất định. Đồng lương này do dân đỏng góp qua nhiều sắc thuế. Thuế chỉ là tiền dịch vụ trả cho viêc người công chức cung cấp dịch vụ. Dịch vụ chẳng qua là một món hàng, nên có cái giá phải trả. Nếu giá dịch vụ quá cao (nghĩa là thuế đánh lên đầu dân quá cao) thì công chức chả phục vụ tí ti gì cả, chỉ có bóc lột dân là đúng hơn. Trong một nền kinh tế tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh (bây giờ gọi là kinh tế thị trường) thì mọi nghiệp vụ sản xuất, thương mại, người ta đều phải tính giá sản phí (cost). Phải làm thế nào giá thành sản phẩm rẻ chừng nào hay chừng nấy đến tay người tiêu dùng. Người ta đặt ra những luật lệ tránh độc quyền, tránh cạnh tranh bất hợp lệ để tránh làm giá quá đáng. Thành thử trong kinh doanh, người ta đặt ra khoa quản trị xí nghiệp để làm thế nào giá thành càng ngày càng rẻ nhưng vẫn không bị lỗ. Theo chúng tôi nghĩ, dịch vụ người công chức cung cấp cũng phải theo luật lệ quản trị. Công chức phải được quản lý thế nào, mà giá dịch vụ đến tay người dân ngày càng rẻ càng tốt. Như vậy, lương công chức bắt buộc phải bằng lương tư chức. Hiện thời, ai cũng biết lương tư chức cao xấp 2 đến 3 lần lương công chức.
Thành thử, ta nghe nói nhiều cơ quan công quyền đòi hỏi quy chế tự trị, để có thể có lương ngang bằng lương tư chức (nhưng hiệu quả công việc có ngang bằng với bên tư chức hay không thì không nghe nói đến).
Nếu công chức được trả lương ngang bằng tư chức, thì không có chuyện nhân tài bên cơ quan công quyền bò ra làm ngoài (nếu không bị ràng buộc bởi việc đi quân dịch) để lại mấy anh cù lần trong giới công chức. Ngoài ra, nếu đã nói đồng quyền lợi như với người tư chức, thì người công chức cũng có thể phải bị sa thải như bên tư chức, nếu không đạt được hiệu quả công việc. Chính cái tình trạng được bảo đảm an ninh suốt đời một khi đã vào ngạch, nên người công chức bất cần hiệu năng công việc của mình. Xếp có quyền chuyển công tác của mình, có quyền cho ta ngồi chơi xơi nước, nhưng không có quyền sa thải ta, vì ta là công chức.
Theo chỗ tôi được biết, thì trên thế giới chỉ có Đan Mạch là quản lý công chức theo mục tiêu để tính giá thành của mỗi dịch vụ của công chức. Công chức ăn lương cao hơn tư chức, nhưng có thể bị ngưng chức và bị sa thải bất cứ lúc nào. Một khi đã bảo quản trị công chức theo mục tiêu, cho ăn lương cao hơn tư chức, mà ngân sách bị hạn chế không thể đưọc tăng vì thuế sẽ quá cao trên mức chịu đựng cúa người dân. Lúc này chỉ có nước là sa thải những công chức nào "vô tích sự".
Đây là điều mà ở VN không ai dám làm. Ai cũng biết là guồng máy chính quyền miền Nam hiện nay quá cồng kềnh nặng nề. Khối lượng công chức hiện thời đã lên đến 300.000 người, cao hơn 3 lần so với thời kỳ ông Diệm. Mà đa số các bà và các cô. Chúng tôi không tin là khối công việc bây nhiều hơn 3 lần so với thời kỳ ông Diệm để phải tăng số công chức lên 3 lần như thế.
Công viêc hành chánh chẳng qua giống như khí trời. Nó có thể co, mà cũng có thể giãn, và giãn vô chừng. Cứ đi vào công sở xem bầu không khí làm việc của công chức. Nó giãn nở một cách không thể tưởng tượng được. Trong công sở, ai cũng biết có nhiều "lớp" công chức. Lớp ở đây giống như lớp đất, lớp đá. Mỗi lớp công chức là bà con thân thuộc của một ông lớn nào đó.
Ông đi nhưng ông để lại những bà con thân thuộc ông đem vào. Ông khác tới, không tin tưởng gì những công chức ông trước để lại, cho ngồi chơi xơi nước, rồi đem vào những người thuộc ê kíp mình. Và cứ thế lớp này chồng chất lên lớp kia. Thành thử mà khối lượng công chức cứ thế mà tăng. Ngoài ra, theo thời gian, người ta lập ra ủy ban này, hội đồng nọ, phần lớn trùng dụng, hoặc là theo thời gian ủy ban đã lỗi thời nên cho ngồi chơi nước, ăn lương ngân sách quốc gia.
Tóm lại, là nếu tăng lương cho công chức, xấp 3 lần chẳng hạn, để cho họ khỏi đói và tham nhũng, thì giảm số lượng công chức xuống còn 1/3 bằng thời kỳ ông Diệm. Sẽ có người phản đối chúng tôi bảo rằng: trong cái thời buổi gạo châu củi quế, thất nghiệp rần rần, sa thải công chức lấy chi họ sống, chỉ tổ gây thêm bất ổn xã hội. Thêm lại sẽ có cái màn tham nhũng: kẻ ở người đi. Ai sẽ được ở lại làm công chức, ai sẽ bị cho về vườn. Có gì bảo đảm là sẽ không có bất công trong việc lựa chọn người ở lại. Chúng tôi rất đồng ý lập luận trên. Nhưng vấn đề được đặt ra là: chúng ta đang ngồi trên một chiếc xe hàng, và đang leo dốc. Xe thì chở đầy người, dốc thì cao, xe đã cũ kỷ ì ạch leo dốc không nổi. Nếu cứ thế, thì xe không tài nào leo dốc, mà có cơ xe tuột dốc lăn xuống hố. Thử hỏi anh tài xế sẽ xử lý ra sao? Chỉ có nước mời khách hàng xuống, ráng lê bước leo dốc, rồi qua khỏi dốc sẽ tiếp tục cuộc hành trình. Trong chuyến hành trình thì có thể để các ông già bà lão con nít ở lại xe, người trai tráng xuống xe, chứ trong công chức không thể để kẻ vô tích sự, hoặc các cô các bà sáng tối chỉ ngồi dũa đánh móng tay hoặc ngồi đan áo len, tán gẫu. Cái khác nhau là thế.
Bây giờ, thử đặt một câu hỏi khác. Giả thử công chức sẽ được trả lương đủ sống, thì tham nhũng có tuyệt nòi không? Vì từ trước đến giờ, người ta lý luận là vì đói nên mới tham nhũng, bây giờ lương đủ sống rồi thì có còn tham nhũng hay không? Thế nào là đủ sống? Theo chúng tôi suy nghĩ thì phải định nghĩa thế nào là đủ sống? Tâm lý người đời cho thấy là chả ai bằng lòng với số phận của mình cả (trừ mấy nhà tu hành phật giáo thời xa xưa chủ trương diệt dục). Nhất là lương thì không bao giờ cho là đủ cả. Những người nhỏ ở dưới thì còn an phận thủ thường, chứ mấy quan lớn ở trên thì lương mấy cũng không vừa cái lòng tham không đáy của họ. Những người thời xưa, tham vọng rất ít (họ được giáo dục như thế) chứ những công chức trẻ bây giờ, tuổi trẻ tài cao, tham vọng lớn lắm, muốn sống nhanh sống vội sống cuồng, nên lương cao bao nhiêu cũng không đủ. Thành thử, cho dù tăng lương cho công chức để đủ sống, thì theo chúng tôi tham nhũng có thể giảm đi ở hạ tầng, chứ ở thượng tầng công chức, thì chúng tôi hơi nghi ngờ. Chúng tôi càng nghi ngờ thêm khi thượng tầng gồm những công chức trẻ, tài ba, bằng cấp to, đỗ đạt lớn, cách tham nhũng của họ thần sầu quỉ khóc, trong đông chu liệt quốc chưa hề ghi chép.
Nói tóm lại, tăng lương cho công chức, nhưng không tăng thuế, bằng cách giảm xuống số lượng công chức chưa chắc đã có công hiệu hoàn toàn đánh tan tham nhũng. Thế thì phải thêm liều thuốc nào nữa?
Chúng ta thử đi sâu vào hệ thống công chức. Hệ thống công chức được đặt ra là để cung cấp những dịch vụ cho dân chúng. Khoa học mà nói, dựa trên khoa vật lý, thì sự hiện diện của một hệ thống được tạo ra là để làm cái gì đó, mà ta gọi là mục tiêu. Và người ta nhận thấy, hệ thống nào cũng có những hiện tượng "lồng lộn" (emballement) làm sai cái mục tiêu được chỉ định. Để tránh sai lầm của hệ thống, người ta thường thêm vào một bộ phận nhỏ gọi là "hồi kiểm" (feedback control) để kiểm soát, đồng thời chỉnh sữa sai lầm của hệ thống. Cũng chưa hết. Đời là một cuộc biến đổi không ngừng (bể dâu). Do đó, một hệ thống cũng phải thay đổi, tránh lạc hậu có nguy cơ bị đào thải. Tiêu chuẩn phải được đề ra, để mà bộ phận hồi kiểm dựa vào đấy so sánh kiểm soát sửa sai. Hệ thống tiêu chuẩn được đặt ra. Tóm lại, một hệ thống hoàn hảo bao giờ cũng phải có một bộ phận hoạt động để thự hiện mục tiêu được đặt ra, một bộ phận định chuẩn cho bộ phận hoạt động làm việc đúng mục tiêu, và cuối cùng bộ phận hồi kiểm (là cái thắng). Khoa học thành lập các bộ phận kể trên cho một hệ thống, thường được gọi là servomécanisme (tiếng Pháp). Áp dụng vào hành chánh công quyền, ta cũng có 3 bộ phận tương đương là: hành pháp để hoạt động, lập pháp để đặt ra những tiêu chuẩn (là luật) và tư pháp là bộ phận hồi kiểm kiểm soát hoạt động của hành pháp tránh lộng quyền (lồng lộn). Nếu hai bộ phận lập pháp và tư pháp không làm việc (hoặc bị hủ hoá, bị làm cho tê liệt) thì hệ thống hoạt động muốn làm gì thì làm, hiện tượng lồng lộn (lộng quyền) sẽ xảy ra, tham nhũng chỉ là một hiện tượng lồng lộn của hệ thống công quyền. Những tối cao pháp viện, những đoàn thanh tra, kiểm tra thanh sát là những bộ phận hồi kiểm. Nếu những bộ phận này làm việc không đúng mức, và hoàn toàn độc lập vô tư, thì không trách hành chánh đã "lộng hành" tham nhũng.(5*) Người ta bảo tư pháp cấu kết (thật ra bị buộc nghe theo) với hành pháp, chúng tôi gọi là court-circuité, nối tắt, nói theo dân kéo điện. Bộ phận hồi kiểm có đó nhưng cũng như không, bị nối tắt, qua mặt.
Như đã nói trên, chỉ tham nhũng khi người ta có mội cái quyền gì đó. Quyền mở hay tắt cái vòi nước "ân huệ" : vòi nước cung cấp dịch vụ, vòi nước kiểm soát, vòi nước định chuẩn. Không cần giảng ai cũng biết: trong một hệ thống nước, nếu có nhiều robinet, nhiều khuỷu (coude), nhiều đường lên xuống liên hồi, thì áp lực nước sẽ giảm đi. Những nơi có robinet, là nơi có quyền cho chảy hay không cho chảy (bây giờ gọi là cơ chế xin-cho), các cái khuỷu là những điều kiện này nọ, những giấy tờ hành chánh rườm rà, lôi thôi. Nếu muốn một hệ thống chạy đàng hoàng, thì phải phân tích lại hệ thống, cắt bỏ đi những cái robinet lạm quyền, những cái khuỷu vô lý, những ống nước chạy lên chạy xuống vô ích. Tăng lương công chức chưa đủ, phải phân tích lại hệ thống dịch vụ công quyền.
Phải dùng những phương tiện điện tử, điện toán, cơ khí thay thế những con người làm tắc nghẽn việc cung cấp dịch vụ cho dân chúng. (Bây giờ, ta gọi là cải cách hành chính).
Khi người dân đến một cơ quan công quyền xin được cung cấp một dịch vụ nào đó: thì phải có giấy tờ này, giấy tờ nọ, chứng chỉ này chứng chỉ nọ. Thí dụ, cơ quan A bắt người dân phải có giấy tờ của cơ quan B, rồi cơ quan B bảo người dân phải có giấy chứng nhận của cơ quan C. Chỉ nội một công việc nhỏ nhoi phải đi 3 nơi A, B, C. Đôi khi cơ quan B đặt điều. Nếu chịu "chi địa" một chút, thì cơ quan B cũng có thể cung cấp chứng nhận khỏi cần đến C. Cái vô lý, là dân phải chạy 3 cửa. Câu hỏi chúng tôi thường tự hỏi là: tại sao 3 cơ quan A, B, C không tự mình liên lạc với nhau, xác nhận với nhau, mà phải bắt dân chạy chờ chực chỗ này, rồi qua chạy chờ chực chỗ kia, tạo ra một quá tải vô ích. Tại sao Bộ Cựu Chiến Binh không liên lạc thẳng với bộ Tổng Tham Mưu để có những thông tin liên quan đến một người lính tử trận, mà phải bắt thân nhân người lính đi tới đi lui để lập hồ sơ xin tiền tử tuất, kéo dài từ năm này qua năm nọ.
Chính giữa các cơ sở công quyền, người công chức đã xây tnhững bức tường "bè phái" kiên cố thay vì những chiếc cầu thông cảm hợp tác nên tham nhũng dễ bề sinh sôi nẩy nở. Người dân bắt buộc phải qua những cửa ải, lọt qua những bức tường hành chánh, không biết đường đi nước bước dễ làm mồi cho tham nhũng. Không phải chỉ người dân Việt đâu. Cả người ngoại quốc khi vào đầu tư ở VN cũng phải qua những thủ tục hành chánh rườm rà rắc rối của hành chánh VN. Họ hết ham, nếu không nói là điên đầu. Mà người ngoại quốc là họ không quen hối lộ, cứ theo thủ tục mà làm. Thấy thủ tục nó kéo dài ra, lâu lắc, họ đâu có biết có nhiều đường đi nước bước, nếu biết thông cảm. Còn người Việt mình thì cứ tưởng người ngoại quốc ai cũng giàu như Mỹ, tưởng đầu tư vào VN là bở béo, tung ra những thủ tục làm khó làm dễ, bắt người ta "thông cảm" (nghĩa là "xì tiền"), thét rồi người ngoại quốc chán ngán bỏ cuộc, rút lui đầu tư đi đầu tư nơi khác. Chắc là người công chức biết rất rõ là mình đang phá hoại chính sách đầu tư của nhà nước.
Tóm lại, phải coi lại hệ thống hành chánh, bỏ bớt những thủ tục hành chánh rườm rà. Từ năm này qua năm nọ, người ta kêu gào khản cổ giản dị hoá thủ tục hành chính, mà sao thủ tục hành chính, nó giống như sán "xơ-mít", nó cứ dài ra, thành một cái nùi rối rắm. Ngoại tệ trở nên hiếm hoi, bao nhiêu phái đoàn đi xin viện trợ về tay không, thế mà mình nhập cảng bừa bãi giấy stencil (có cơ quan nhập cảng 1 triệu MK trong năm 1974), giấy photocopie, bột giấy, tất cả chỉ để cung ứng cho cái bệnh ngốn giấy của hành chánh VN.
Tóm lại, phải bỏ bớt cái quyền "giả tưởng" bằng cách giản dị hoá thủ tục hành chánh, vì mỗi lần đặt ra một thủ tục hành chánh là đã đem lại một cái quyền gì đó cho người cứu xét thủ tục này.
Ngoài ra, phải xem xét lại vấn đề quản trị hệ thống hành chính công quyền. Theo nguyên tắc công chức được tuyển vào là để cung cấp một dịch vụ gì đó cho dân chúng. Mỗi dịch vụ có cái giá của nó, gọi là giá thành dịch vụ, nói theo sản xuất kinh doanh. Mỗi dịch vụ phải tìm cho ra một đơn vị đo lường để tính toán. Thí dụ: phòng đánh máy, thì số thư phải đánh trong một tháng là bao nhiêu. Đối với thuế vụ, thì số hồ sơ người thọ thuế phải được xử lý là bao nhiêu. Đối với bệnh viện, thì số bệnh nhân được điều trị là đơn vị đo lường. Hệ thống công sở đã được chia thành nha sở, như vậy dịch vụ đã thuần nhất. Chỉ cần tính tất cả sở phí về nhân viên, về nhà cửa văn phòng, về điện nước, v.v.. thì tính ra giá thành mỗi dịch vụ, lúc ấy sẽ biết nơi nào tiêu, nơi nào tiêu ít. Thí dụ: lấy tất cả số tiền chi cho các dân biểu, nghị sĩ, cộng thêm các chi phí tài xế, xe cộ, v.v.. Rồi chia cho số luật ban hành trong năm, thì quý vị sẽ thấy luật của ta cao nhất thế giới, mà chả ra cái trò trống gì cả. Xin quí vị đừng cười, sự thật là thế. Phải đặt trọng tâm là tìm ra giá thành dịch vụ công cộng rẻ chừng nào hay chừng nấy.
Ngoài ra, loại dịch vụ, loại dự án công tác, có thể là tân tạo, có thể biến đổi, có thể mất đi. Phải làm thế nào công chức không được nằm một chỗ, phải di động từ dịch vụ này qua dịch vụ kia, từ dự án này qua dự án kia. Phải tận dụng khả năng chuyên môn của một công chức vào một dự án. Chính cái việc một kỹ sư X được tuyển dụng vào bộ A, nhưng có bộ B lại cần cái chuyên môn của kỹ sư X nhưng không tài xin biệt phái qua giúp làm dự án. Đã từ lâu, người ta kêu gào là dùng người không đúng chỗ, chẳng qua là vì sự chia cắt cứng nhắc từng nha sở. Mỗi bộ phủ, nha sở đều có những bức tường ngăn cách vô hình, có nhiều nha thì việc nhiều người ít, có nha thì việc ít, người nhiều, phần lớn ngồi chơi xơi nước. Ngay ở bệnh viện, nhiều nữ y tá phụ mổ khan hiếm xin khản cổ không có, ngược lại nữ nhân viên choai choai thì thừa mứa, ngồi không tán gẫu.
Phải làm thế nào có một hồ sơ lý lịch chuyên môn, các khoảng thời gian tham gia các dự án của người công chức (hình như người ta đang làm thì phải). Mỗi dự án mỗi dịch vụ phải ấn định thời gian hoạt động, các phương tiện vật chất và nhân sự và phương pháp đánh giá kiểm tra hoạt động. Chỉ cần sử dụng máy điện toán là có thể sắp xếp, phân công các công chức trên các dịch vụ hoặc dự án. Sau khi hoàn thành công tác, thì công chức sẽ được trả về pool để nhận công tác mới, như vậy công chức không có cơ may mọc rễ ở một nơi náo để có thể tham nhũng. Và sau một dự án dịch vụ, người ta phải định lượng lại giá thành của dự án dịch vụ để xem hiệu quả công việc của công chức ra sao. Hiện giờ, người ta chỉ biết khoe thành tích là làm được cái này cái nọ, nhưng không cho biết hao tốn bao nhiêu đối với ngân sách quốc gia, và dân đã bị gọi "chi" bao nhiêu cho hệ thống tham nhũng. Cái này thì người ta im lìm. Lấy một thí dụ: tuyển một nhân viên thuế vụ tốn hết 250.000 đ/năm để truy thu thuế đem về được 50.000đ thì xem như vậy có đáng đồng tiền bát gạo của dân chúng hay không? Phải xem xét lại vấn đề hiệu năng của công chức. Ai cũng biết hiệu năng công chức giảm, giảm ở nha sở nào, giảm bao nhiêu. Không ai có ý niệm rõ ràng. Thành thử, khi nói đến chuyện chấn chỉnh cơ quan công quyền, mà không ai có một ý niệm rõ ràng, thì làm sao tránh được chuyện vá víu qua loa.
Tóm lại công chức phải được quản trị một cách khoa học. (Người Việt mình, từ trên xuống dưới thích nói khoa học), vì công chức là một thành tố trong việc tính giá thành dịch vụ của một dự án. Ở các nước châu Âu như Anh, Pháp, Thuỵ điển, Đan Mạch, Đức, từ 5 năm nay, người ta sử dụng máy điện toán để quản lý công chức và các phương tiện cơ sở vật chất (văn phòng, xe vộ, văn phòng phẩm, v.v..) công quyền để hướng tới một kiểu quản lý được gọi là quản trị theo mục tiêu (gestion par objectif). Những mục tiêu này có thể là những dự án đồ sộ, những dự án công ích liên quan đến nhiều bộ phủ nha sở. Người ta dùng những kỹ thuật được gọi là RCB (rationalisation des choix budgétaires - hợp lý hoá những chọn lựa ngân sách) để chi tiêu hợp lý trong mỗi dự án, vì người ta biết rằng có nhiều cách thực hiện dự án, mỗi cách có cái giá phải trả, do đó phải chọn cách nào rẻ tiền, nhưng vẫn bảo đảm kết quả. Vì bài toán thường khá phức tạp nên người ta sử dụng phương tiện điện toán.
Bây giờ, ta đi thêm một bước nữa. Đặt giả thuyết là công chức đã có một mức lương đủ sống, đã được quản trị một cách hợp lý (không có hiện tượng dùng người không đúng chỗ, hoặc ngồi chơi xơi nước) thì thử hỏi có còn tham nhũng hay không. Chúng tôi chưa chắc đã dứt được. Không phải chúng tôi bi quan hay đa nghi. Chẳng qua là tham nhũng chỉ sinh sôi nảy nở khi có một môi trường thích hợp. Do đó, muốn ngăn chặn tham nhũng, thì chỉ có cách là làm cho môi trường này trở thành "vô trùng" (aseptique).
Cho dù các công chức nhỏ ở dưới bớt tham nhũng, cho dù một số thủ tục đẻ ra quyền đã được lọc bỏ bớt, cho dù việc quản lý công chức đã được, nhưng các ông to đầu ở trên vẫn tiếp tục tham nhũng chả kể trời đất gì, thì phải làm thế nào?
Cái thời xa xưa, khi các nho sĩ ra làm quan, còn lấy đạo đức Khổng Mạnh ra làm nề nếp cai trị dân gian, chứ thời nay, sau 100 năm độ hộ của thực dân Pháp và 20 năm sống với Mỹ, kẻ sĩ tân thời ngày nay giỏi khoa học kỹ thuật của Âu Mỹ, nhưng lại bỏ mất cái đạo đức làm người của người xưa, nên tham nhũng tưới hột sen luôn, tham nhũng trên tiền tử tuất, tham nhũng trên sức khỏe của bệnh nhân, v.v.. Nghĩa là tham nhũng một cách vô hậu.
Vô số trí thức khoa bảng ngày nay chỉ dùng cái khoa học kỹ thuật của Âu Mỹ để che đậy cái túi tham vô đáy của mình: thử hỏi "người ta" được chia bao nhiêu phần trăm tiền huê hồng, khi cho nhập cảng thả dàn xe hai bánh honda dưới chiêu bài khoa học phải thoả mãn nhu cầu của thị trường tiêu thụ của dân chúng.
Làm sao trừng trị những vụ tham nhũng to tổ bố. (6*). Ai cũng biết tiền lôi theo quyền, quyền kéo theo sức mạnh (lực), sức mạnh đẻ ra tiền. Làm sao chặt được cái vòng "quyền, lực, tiền". Làm thế nào trừng trị những kẻ tham nhũng có những "gốc bự" bao che. Đã bao lần người ta kêu gào "bứng gốc bự", mà gốc bự vẫn cứng như đá vững như đồng. Không lẽ dùng các câu thần chú của thời xa xưa: như "thượng tôn pháp luật", "thượng bất chánh, hạ tắc loạn" để mong giảm tác hại của nạn tham nhũng. (7*) Hay người ta sẽ bày trò "đêm canh thức soi sáng lương tâm kẻ tham nhũng", quên rằng lương tâm kẻ sĩ bây giờ đã bị đánh cắp từ lâu rồi. Hay là người ta kêu gọi tánh tự xử của người Nhật, hoặc bắt chước gương các ông cựu thủ tướng Đức Willy Brandt, cựu thủ tướng Nhật, Tanaka. Nhưng người ta quên rằng đã tham nhũng là phải ù lì, mà đã ù lì thì làm sao mà tự xử được. Khi mà tham sân si đã chế ngự lòng người rồi, thì tự xử là cái chi chi. Cứ xem cách Thượng viện kêu gào từ chức khuyến cáo từ chức đối với ông đầu não "phân bón" thì đủ biết hiệu lực của tự xử.
Tới đây, chúng tôi xin kết thúc phần phân tích hiện trạng tham nhũng ở miền Nam để bạn biết đường mà lần, nếu bạn được giao quyền dẹp tan nạn tham nhũng. Còn theo lời của linh mục Trương Bá Cần, giám đốc Phong trào Thanh Lao Công, của phía công giáo, thì miền Bắc không hề biết tham nhũng là gì. Tin hay không là tuỳ bạn.
Người dân thì đã nếm mùi tham nhũng, từ việc đi lính đi tráng, từ việc xin xỏ giấy tờ hành chánh làm ăn, v.v.. Ai cũng biết có tham nhũng, và lẽ đương nhiên ai cũng muốn chống tham nhũng, đòi hỏi chánh quyền chống tham nhũng. Chính TT Thiệu đã bảo tham nhũng là "quốc nạn", đã cảnh cáo là ta có thể mất nước vì hoạ tham nhũng thay vì thất trận. Nếu TT Thiệu đã "tuyên bố một cách xanh rờn" như thế, thì tất cả chính quyền đã đả thông tư tưởng như TT đã nêu ra. Nghĩa là tóm lại: từ dân ngu khu đen cho đến giới chức chánh quyền, kể cả TT, ai ai cũng đồng ý (bây giờ gọi là nhất trí): là có tham nhũng, và phải chống tham nhũng để cứu nước vì nó là "quốc nạn", có thể mất nước như chơi.
Chưa bao giờ có một sự đồng lòng từ trên xuống như thế. Nhưng cái rắc rối nó lòi ra liền khi đặt những câu hỏi sau đây: ai tham nhũng, vì sao "người nớ" tham nhũng, làm cách gì "người nớ" về sau không thể tham nhũng, phải trừng trị ra sao, khi đúng là "ngườ nớ" tham nhũng.
Hiện giờ, chúng ta đang làm cái việc tố cáo những kẻ tham nhũng, rồi đòi hỏi phải trừng trị kẻ có hành vi tham nhũng. Nhưng ít ai chịu trả lời 2 câu hỏi: (1) vì sao có tham nhũng; (2) làm sao ngăn ngừa nạn tham nhũng. Hiện giờ, chúng ta đang làm cái công việc của một bà mẹ sáng ra thấy có đứa con đái dầm trên giường, đi tìm thủ phạm rồi lôi nó ra đánh một trận rồi thôi. Chả cần tìm hiểu vì sao nó đái dầm. Tự bảo trăng rằm thì trăng tròn, lớn lên thì sẽ hết đái dầm. Đối với hoạ tham nhũng người ta tự nhủ vận nước nó thế. Phải chờ cho hết thời mạt vận.
Trong chiều hướng đi tìm hiểu vì sao có tham nhũng, chúng tôi đã có lần đề cập đến vấn đề này trên mặt báo Chính Luận, với hai bài báo: "Tham nhũng và Dân tộc tính VN" và "Tham nhũng và Phụ Nữ VN". (1*) Hôm nay chúng tôi trở lại với vấn đề tham nhũng với khía cạnh khác: "Tham nhũng với tập đoàn công chức". Chúng tôi rất ý thức, bài báo này sẽ gây ra nhiều ngộ nhận, nhiều chống đối. Khi chúng tôi ngỏ ý viết bài báo này, thì nhiều người bạn ngăn lại bảo đừng đụng tới "ổ kiến lửa" này. Nhưng chúng tôi thiết nghĩ rằng: trong một cộng đoàn nào cũng có kẻ xấu người tốt. Phân tích cái xấu của một tập đoàn, không có nghĩa là chê trách, chống đối tập đoàn này, chẳng qua là muốn tìm hiểu căn nguyên của cái xấu này. Ở xã hội ta, loại người "mèo khen mèo dài đuôi" thì đầy dẫy, nên không ưa ai chỉ trích chê bai mình, dù biết rằng "dòi trong ruột dòi ra". Nếu có ông viện trưởng đại học nào đó có can đảm thú nhận trước công chúng trong một buổi diễn thuyết về những cái bê bối của đại học, thì liền bị ông bộ trưởng bộ QGGD xài xể bảo rằng "vạch áo cho người xem lưng", đâu có biết rằng cái áo mình mặc đã tả tơi từ lâu rồi, không cần vạch thì dân ngu khu đen cũng đã thấy cái lưng bê bối từ lâu rồi.
Chúng tôi cũng biết rằng "mía sâu có đốt, nhà dột có nơi", nói đến "tập đoàn công chức", chúng tôi xin minh định trước là chúng tôi không dám vơ đũa cả nắm. Chúng tôi không có ý nói tất cả tập đoàn công chức đều tham nhũng. Chỉ một phần nào thôi (2*).
Trong quá khứ, ông Phó phụ trách chống tham nhũng bảo rằng "nếu bỏ tù hết công chức tham nhũng thì lấy ai làm việc". Nói như thế, có nghĩa là mặc nhiên công nhận từ trên xuống dưới, ai ai trong chính quyền, trong giới công chức quân nhân (còn gọi "công quân cán cảnh", nghĩa là công chức, quân nhân, cán sự, cảnh sát) cũng đều có "máu mê tham nhũng". Gần đây, TT Thiệu đã hứa là làm sạch tham nhũng trong quân đội trong 1 tháng, làm sạch tham nhũng trong cơ quan công quyền trong 3 tháng. Nếu so sánh 1,2 triệu quân kể cả địa phương quân với 300.000 công chức, mà bài trừ tham nhũng trong quân đội chỉ mất 1 tháng, còn trong công chức mất 3 tháng, nghĩa là khó đến 12 lần, như vậy nạn tham nhũng trong công chức là khá trầm trọng. Ngoài ra, nếu ta biết trước đó, chính phủ đã gởi công chức xuống Vũng Tàu "học tập cách mạng" để phục vụ nhân dân, hữu hiệu hơn (nghĩa là bớt tham nhũng). Nếu đã dám chi 8 tỉ bạc, để cách mạng hoá công chức, rồi lại tuyên bố như trên, thì không nói ra, TT xem tập đoàn công chức là loại người phải ra công "tôi luyện" (roughneck).
Trước khi đi sâu vào vấn đề tham nhũng trong giới công chúc, chúng tôi nghĩ nên đặt hạn chế đối với vấn đề tham nhũng.
Theo chúng tôi nghĩ thì "chỉ ai có quyền, nắm quyền, mới có cơ hội tham nhũng". Một bà bán bánh bèo ngoài chợ, không thể tham nhũng vì bà ta không có cái quyền ảnh hưởng lên người nào cả. Cái "quyền" ở đây không giới hạn vào các "ông tai to mặt lớn", ngồi trên, vì đôi khi "có tiếng mà không có miếng". Một anh tuỳ phái ở một văn phòng bộ nào đó, một khi có cái "quyền chuyển hồ sơ" tận tay ai đó, hoặc có cái "quyền dẫn dắt cho vào gặp ông lớn" là đã có cơ hội tham nhũng. Anh tuỳ phái giữ một chức vụ rất nhỏ nhoi trong hệ thống hành chánh công quyền, nhưng không vì vậy mà anh ta không có cơ hội tham nhũng. Thành thử ta có thể kết luận sơ bộ một nguyên lý thứ nhất là: chỉ tham nhũng khi người ta có quyền, và quyền này không bắt buộc gắn liền vào một chức vụ. Cái quyền này nó mông lung lắm nhưng theo chúng tôi nghĩ nó giống như cái vòi nước (robinet), khi mở khi tắt. Người nào nắm cái quyền mở vòi nước hoặc đóng lại vòi nước, thì người ấy có cơ hội tham nhũng (3*). Nhà cháy, anh lính chữa lữa cầm vòi nước chữa cháy là đã có quyền trên đám cháy. Một ông tổng trưởng có cái quyền biết trước một hai ngày giá đường sẽ tăng (hoặc giá xăng dầu) thì ông ta có cơ hội tham nhũng kiếm được hàng tỉ bạc. Một anh lính hoặc cảnh sát quèn, nếu có quyền chụp mũ một anh dân lành là VC là có quyền tham nhũng. Thành thử, muốn biết trong hệ thống nào đó, chỗ nào sẽ xảy ra tham nhũng thì chỉ xem chỗ nào có "quyền mở đóng vòi nườc". (Bây giờ gọi là cơ chế xin-cho).
Tóm lại, là ông công chức nào nắm cái quyền gì đó, thì ông ta có cơ hội tham nhũng, nếu lương tâm của ông ta đội nón ra đi hồi nào không biết.
Đã từ lâu, người ta tự hỏi: vì sao công chức chánh quyền ngày càng tham nhũng. Người ta không trả lời, nhưng trong thâm tâm, người ta đã có câu trả lời: đó là vì công chức ĐÓI. Người xưa có câu: "Đói ăn vụng, túng làm càn". Vì đói sinh ra tham nhũng. Nhưng nếu ta hỏi tiếp. Vì sao công chức đói. Thì được trả lời rằng: đồng lương công chức là cố định, mà vật giá thì leo thang, lạm phát thì phi mã, v.v.. Nếu hỏi tiếp: vì sao vật giá leo thang, lạm phát phi mã. Thìbđược trả lời: là tại vì có chiến tranh. Bây giờ, ta hỏi ngược lại: nếu không có chiến tranh thì tham nhũng sẽ biến mất hay không. Người ta trả lời: nếu không có chiến tranh thì sẽ không còn tham nhũng.(4*). Chúng tôi không tin như thế. Nhìn về nước Do Thái có chiến tranh từ thời lập quốc đến nay, xem có tham nhũng hay không. Hay xem nước Ethiopie hoặc các nước Phi Châu không có chiến tranh (ngoài vài mống nổi loạn loe ngoe) thế mà tham nhũng quá trời. Nam Dương và Phi Luật Tân cũng thế. Thành thử, chiến tranh là một thành tố gây tham nhũng, nhưng không phải là một yếu tố quyết định. Nên ta phải tìm hướng khác để suy gẫm.
Ai cũng biết công chức đói meo, đồng lương không đủ sống. Rồi người ta đâm ra luyến tiếc cái thời vàng son, thời công chức "tối sâm banh sáng sữa bò". Bây giờ, vì đói công chức sinh ra tham nhũng. Muốn chống tham nhũng, thì phải tăng lương cho công chức. Mà tăng lương, thì giá cả bên ngoài rục rịch leo thang. Chúng ta lại trở về cái vòng luẩn quẩn không bao giờ chấm dứt được.
Để tránh tăng lương cho công chức, quân nhân, vì chỉ làm mồi cho gian thương lên giá, nên người ta tổ chức bán hàng rẻ cho quân nhân ở Quân Tiếp Vụ, và cho công chức ở Tổng Cục Tiếp Tế. Những chuyện bê bối ở TCTT thì ta nghe nói dài dài như chuyện dài nhân dân tự về. Nói tóm lại cuộc sống người công chức chả hồng tí nào.
Theo chúng tôi nghĩ, là chúng ta phải quan niệm lại vai trò của công chức. Người công chức là người cung cấp một dịch vụ nào đó cho người dân (chứ không phải làm cha thằng dân) đổi lấy một đồng lương nhất định. Đồng lương này do dân đỏng góp qua nhiều sắc thuế. Thuế chỉ là tiền dịch vụ trả cho viêc người công chức cung cấp dịch vụ. Dịch vụ chẳng qua là một món hàng, nên có cái giá phải trả. Nếu giá dịch vụ quá cao (nghĩa là thuế đánh lên đầu dân quá cao) thì công chức chả phục vụ tí ti gì cả, chỉ có bóc lột dân là đúng hơn. Trong một nền kinh tế tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh (bây giờ gọi là kinh tế thị trường) thì mọi nghiệp vụ sản xuất, thương mại, người ta đều phải tính giá sản phí (cost). Phải làm thế nào giá thành sản phẩm rẻ chừng nào hay chừng nấy đến tay người tiêu dùng. Người ta đặt ra những luật lệ tránh độc quyền, tránh cạnh tranh bất hợp lệ để tránh làm giá quá đáng. Thành thử trong kinh doanh, người ta đặt ra khoa quản trị xí nghiệp để làm thế nào giá thành càng ngày càng rẻ nhưng vẫn không bị lỗ. Theo chúng tôi nghĩ, dịch vụ người công chức cung cấp cũng phải theo luật lệ quản trị. Công chức phải được quản lý thế nào, mà giá dịch vụ đến tay người dân ngày càng rẻ càng tốt. Như vậy, lương công chức bắt buộc phải bằng lương tư chức. Hiện thời, ai cũng biết lương tư chức cao xấp 2 đến 3 lần lương công chức.
Thành thử, ta nghe nói nhiều cơ quan công quyền đòi hỏi quy chế tự trị, để có thể có lương ngang bằng lương tư chức (nhưng hiệu quả công việc có ngang bằng với bên tư chức hay không thì không nghe nói đến).
Nếu công chức được trả lương ngang bằng tư chức, thì không có chuyện nhân tài bên cơ quan công quyền bò ra làm ngoài (nếu không bị ràng buộc bởi việc đi quân dịch) để lại mấy anh cù lần trong giới công chức. Ngoài ra, nếu đã nói đồng quyền lợi như với người tư chức, thì người công chức cũng có thể phải bị sa thải như bên tư chức, nếu không đạt được hiệu quả công việc. Chính cái tình trạng được bảo đảm an ninh suốt đời một khi đã vào ngạch, nên người công chức bất cần hiệu năng công việc của mình. Xếp có quyền chuyển công tác của mình, có quyền cho ta ngồi chơi xơi nước, nhưng không có quyền sa thải ta, vì ta là công chức.
Theo chỗ tôi được biết, thì trên thế giới chỉ có Đan Mạch là quản lý công chức theo mục tiêu để tính giá thành của mỗi dịch vụ của công chức. Công chức ăn lương cao hơn tư chức, nhưng có thể bị ngưng chức và bị sa thải bất cứ lúc nào. Một khi đã bảo quản trị công chức theo mục tiêu, cho ăn lương cao hơn tư chức, mà ngân sách bị hạn chế không thể đưọc tăng vì thuế sẽ quá cao trên mức chịu đựng cúa người dân. Lúc này chỉ có nước là sa thải những công chức nào "vô tích sự".
Đây là điều mà ở VN không ai dám làm. Ai cũng biết là guồng máy chính quyền miền Nam hiện nay quá cồng kềnh nặng nề. Khối lượng công chức hiện thời đã lên đến 300.000 người, cao hơn 3 lần so với thời kỳ ông Diệm. Mà đa số các bà và các cô. Chúng tôi không tin là khối công việc bây nhiều hơn 3 lần so với thời kỳ ông Diệm để phải tăng số công chức lên 3 lần như thế.
Công viêc hành chánh chẳng qua giống như khí trời. Nó có thể co, mà cũng có thể giãn, và giãn vô chừng. Cứ đi vào công sở xem bầu không khí làm việc của công chức. Nó giãn nở một cách không thể tưởng tượng được. Trong công sở, ai cũng biết có nhiều "lớp" công chức. Lớp ở đây giống như lớp đất, lớp đá. Mỗi lớp công chức là bà con thân thuộc của một ông lớn nào đó.
Ông đi nhưng ông để lại những bà con thân thuộc ông đem vào. Ông khác tới, không tin tưởng gì những công chức ông trước để lại, cho ngồi chơi xơi nước, rồi đem vào những người thuộc ê kíp mình. Và cứ thế lớp này chồng chất lên lớp kia. Thành thử mà khối lượng công chức cứ thế mà tăng. Ngoài ra, theo thời gian, người ta lập ra ủy ban này, hội đồng nọ, phần lớn trùng dụng, hoặc là theo thời gian ủy ban đã lỗi thời nên cho ngồi chơi nước, ăn lương ngân sách quốc gia.
Tóm lại, là nếu tăng lương cho công chức, xấp 3 lần chẳng hạn, để cho họ khỏi đói và tham nhũng, thì giảm số lượng công chức xuống còn 1/3 bằng thời kỳ ông Diệm. Sẽ có người phản đối chúng tôi bảo rằng: trong cái thời buổi gạo châu củi quế, thất nghiệp rần rần, sa thải công chức lấy chi họ sống, chỉ tổ gây thêm bất ổn xã hội. Thêm lại sẽ có cái màn tham nhũng: kẻ ở người đi. Ai sẽ được ở lại làm công chức, ai sẽ bị cho về vườn. Có gì bảo đảm là sẽ không có bất công trong việc lựa chọn người ở lại. Chúng tôi rất đồng ý lập luận trên. Nhưng vấn đề được đặt ra là: chúng ta đang ngồi trên một chiếc xe hàng, và đang leo dốc. Xe thì chở đầy người, dốc thì cao, xe đã cũ kỷ ì ạch leo dốc không nổi. Nếu cứ thế, thì xe không tài nào leo dốc, mà có cơ xe tuột dốc lăn xuống hố. Thử hỏi anh tài xế sẽ xử lý ra sao? Chỉ có nước mời khách hàng xuống, ráng lê bước leo dốc, rồi qua khỏi dốc sẽ tiếp tục cuộc hành trình. Trong chuyến hành trình thì có thể để các ông già bà lão con nít ở lại xe, người trai tráng xuống xe, chứ trong công chức không thể để kẻ vô tích sự, hoặc các cô các bà sáng tối chỉ ngồi dũa đánh móng tay hoặc ngồi đan áo len, tán gẫu. Cái khác nhau là thế.
Bây giờ, thử đặt một câu hỏi khác. Giả thử công chức sẽ được trả lương đủ sống, thì tham nhũng có tuyệt nòi không? Vì từ trước đến giờ, người ta lý luận là vì đói nên mới tham nhũng, bây giờ lương đủ sống rồi thì có còn tham nhũng hay không? Thế nào là đủ sống? Theo chúng tôi suy nghĩ thì phải định nghĩa thế nào là đủ sống? Tâm lý người đời cho thấy là chả ai bằng lòng với số phận của mình cả (trừ mấy nhà tu hành phật giáo thời xa xưa chủ trương diệt dục). Nhất là lương thì không bao giờ cho là đủ cả. Những người nhỏ ở dưới thì còn an phận thủ thường, chứ mấy quan lớn ở trên thì lương mấy cũng không vừa cái lòng tham không đáy của họ. Những người thời xưa, tham vọng rất ít (họ được giáo dục như thế) chứ những công chức trẻ bây giờ, tuổi trẻ tài cao, tham vọng lớn lắm, muốn sống nhanh sống vội sống cuồng, nên lương cao bao nhiêu cũng không đủ. Thành thử, cho dù tăng lương cho công chức để đủ sống, thì theo chúng tôi tham nhũng có thể giảm đi ở hạ tầng, chứ ở thượng tầng công chức, thì chúng tôi hơi nghi ngờ. Chúng tôi càng nghi ngờ thêm khi thượng tầng gồm những công chức trẻ, tài ba, bằng cấp to, đỗ đạt lớn, cách tham nhũng của họ thần sầu quỉ khóc, trong đông chu liệt quốc chưa hề ghi chép.
Nói tóm lại, tăng lương cho công chức, nhưng không tăng thuế, bằng cách giảm xuống số lượng công chức chưa chắc đã có công hiệu hoàn toàn đánh tan tham nhũng. Thế thì phải thêm liều thuốc nào nữa?
Chúng ta thử đi sâu vào hệ thống công chức. Hệ thống công chức được đặt ra là để cung cấp những dịch vụ cho dân chúng. Khoa học mà nói, dựa trên khoa vật lý, thì sự hiện diện của một hệ thống được tạo ra là để làm cái gì đó, mà ta gọi là mục tiêu. Và người ta nhận thấy, hệ thống nào cũng có những hiện tượng "lồng lộn" (emballement) làm sai cái mục tiêu được chỉ định. Để tránh sai lầm của hệ thống, người ta thường thêm vào một bộ phận nhỏ gọi là "hồi kiểm" (feedback control) để kiểm soát, đồng thời chỉnh sữa sai lầm của hệ thống. Cũng chưa hết. Đời là một cuộc biến đổi không ngừng (bể dâu). Do đó, một hệ thống cũng phải thay đổi, tránh lạc hậu có nguy cơ bị đào thải. Tiêu chuẩn phải được đề ra, để mà bộ phận hồi kiểm dựa vào đấy so sánh kiểm soát sửa sai. Hệ thống tiêu chuẩn được đặt ra. Tóm lại, một hệ thống hoàn hảo bao giờ cũng phải có một bộ phận hoạt động để thự hiện mục tiêu được đặt ra, một bộ phận định chuẩn cho bộ phận hoạt động làm việc đúng mục tiêu, và cuối cùng bộ phận hồi kiểm (là cái thắng). Khoa học thành lập các bộ phận kể trên cho một hệ thống, thường được gọi là servomécanisme (tiếng Pháp). Áp dụng vào hành chánh công quyền, ta cũng có 3 bộ phận tương đương là: hành pháp để hoạt động, lập pháp để đặt ra những tiêu chuẩn (là luật) và tư pháp là bộ phận hồi kiểm kiểm soát hoạt động của hành pháp tránh lộng quyền (lồng lộn). Nếu hai bộ phận lập pháp và tư pháp không làm việc (hoặc bị hủ hoá, bị làm cho tê liệt) thì hệ thống hoạt động muốn làm gì thì làm, hiện tượng lồng lộn (lộng quyền) sẽ xảy ra, tham nhũng chỉ là một hiện tượng lồng lộn của hệ thống công quyền. Những tối cao pháp viện, những đoàn thanh tra, kiểm tra thanh sát là những bộ phận hồi kiểm. Nếu những bộ phận này làm việc không đúng mức, và hoàn toàn độc lập vô tư, thì không trách hành chánh đã "lộng hành" tham nhũng.(5*) Người ta bảo tư pháp cấu kết (thật ra bị buộc nghe theo) với hành pháp, chúng tôi gọi là court-circuité, nối tắt, nói theo dân kéo điện. Bộ phận hồi kiểm có đó nhưng cũng như không, bị nối tắt, qua mặt.
Như đã nói trên, chỉ tham nhũng khi người ta có mội cái quyền gì đó. Quyền mở hay tắt cái vòi nước "ân huệ" : vòi nước cung cấp dịch vụ, vòi nước kiểm soát, vòi nước định chuẩn. Không cần giảng ai cũng biết: trong một hệ thống nước, nếu có nhiều robinet, nhiều khuỷu (coude), nhiều đường lên xuống liên hồi, thì áp lực nước sẽ giảm đi. Những nơi có robinet, là nơi có quyền cho chảy hay không cho chảy (bây giờ gọi là cơ chế xin-cho), các cái khuỷu là những điều kiện này nọ, những giấy tờ hành chánh rườm rà, lôi thôi. Nếu muốn một hệ thống chạy đàng hoàng, thì phải phân tích lại hệ thống, cắt bỏ đi những cái robinet lạm quyền, những cái khuỷu vô lý, những ống nước chạy lên chạy xuống vô ích. Tăng lương công chức chưa đủ, phải phân tích lại hệ thống dịch vụ công quyền.
Phải dùng những phương tiện điện tử, điện toán, cơ khí thay thế những con người làm tắc nghẽn việc cung cấp dịch vụ cho dân chúng. (Bây giờ, ta gọi là cải cách hành chính).
Khi người dân đến một cơ quan công quyền xin được cung cấp một dịch vụ nào đó: thì phải có giấy tờ này, giấy tờ nọ, chứng chỉ này chứng chỉ nọ. Thí dụ, cơ quan A bắt người dân phải có giấy tờ của cơ quan B, rồi cơ quan B bảo người dân phải có giấy chứng nhận của cơ quan C. Chỉ nội một công việc nhỏ nhoi phải đi 3 nơi A, B, C. Đôi khi cơ quan B đặt điều. Nếu chịu "chi địa" một chút, thì cơ quan B cũng có thể cung cấp chứng nhận khỏi cần đến C. Cái vô lý, là dân phải chạy 3 cửa. Câu hỏi chúng tôi thường tự hỏi là: tại sao 3 cơ quan A, B, C không tự mình liên lạc với nhau, xác nhận với nhau, mà phải bắt dân chạy chờ chực chỗ này, rồi qua chạy chờ chực chỗ kia, tạo ra một quá tải vô ích. Tại sao Bộ Cựu Chiến Binh không liên lạc thẳng với bộ Tổng Tham Mưu để có những thông tin liên quan đến một người lính tử trận, mà phải bắt thân nhân người lính đi tới đi lui để lập hồ sơ xin tiền tử tuất, kéo dài từ năm này qua năm nọ.
Chính giữa các cơ sở công quyền, người công chức đã xây tnhững bức tường "bè phái" kiên cố thay vì những chiếc cầu thông cảm hợp tác nên tham nhũng dễ bề sinh sôi nẩy nở. Người dân bắt buộc phải qua những cửa ải, lọt qua những bức tường hành chánh, không biết đường đi nước bước dễ làm mồi cho tham nhũng. Không phải chỉ người dân Việt đâu. Cả người ngoại quốc khi vào đầu tư ở VN cũng phải qua những thủ tục hành chánh rườm rà rắc rối của hành chánh VN. Họ hết ham, nếu không nói là điên đầu. Mà người ngoại quốc là họ không quen hối lộ, cứ theo thủ tục mà làm. Thấy thủ tục nó kéo dài ra, lâu lắc, họ đâu có biết có nhiều đường đi nước bước, nếu biết thông cảm. Còn người Việt mình thì cứ tưởng người ngoại quốc ai cũng giàu như Mỹ, tưởng đầu tư vào VN là bở béo, tung ra những thủ tục làm khó làm dễ, bắt người ta "thông cảm" (nghĩa là "xì tiền"), thét rồi người ngoại quốc chán ngán bỏ cuộc, rút lui đầu tư đi đầu tư nơi khác. Chắc là người công chức biết rất rõ là mình đang phá hoại chính sách đầu tư của nhà nước.
Tóm lại, phải coi lại hệ thống hành chánh, bỏ bớt những thủ tục hành chánh rườm rà. Từ năm này qua năm nọ, người ta kêu gào khản cổ giản dị hoá thủ tục hành chính, mà sao thủ tục hành chính, nó giống như sán "xơ-mít", nó cứ dài ra, thành một cái nùi rối rắm. Ngoại tệ trở nên hiếm hoi, bao nhiêu phái đoàn đi xin viện trợ về tay không, thế mà mình nhập cảng bừa bãi giấy stencil (có cơ quan nhập cảng 1 triệu MK trong năm 1974), giấy photocopie, bột giấy, tất cả chỉ để cung ứng cho cái bệnh ngốn giấy của hành chánh VN.
Tóm lại, phải bỏ bớt cái quyền "giả tưởng" bằng cách giản dị hoá thủ tục hành chánh, vì mỗi lần đặt ra một thủ tục hành chánh là đã đem lại một cái quyền gì đó cho người cứu xét thủ tục này.
Ngoài ra, phải xem xét lại vấn đề quản trị hệ thống hành chính công quyền. Theo nguyên tắc công chức được tuyển vào là để cung cấp một dịch vụ gì đó cho dân chúng. Mỗi dịch vụ có cái giá của nó, gọi là giá thành dịch vụ, nói theo sản xuất kinh doanh. Mỗi dịch vụ phải tìm cho ra một đơn vị đo lường để tính toán. Thí dụ: phòng đánh máy, thì số thư phải đánh trong một tháng là bao nhiêu. Đối với thuế vụ, thì số hồ sơ người thọ thuế phải được xử lý là bao nhiêu. Đối với bệnh viện, thì số bệnh nhân được điều trị là đơn vị đo lường. Hệ thống công sở đã được chia thành nha sở, như vậy dịch vụ đã thuần nhất. Chỉ cần tính tất cả sở phí về nhân viên, về nhà cửa văn phòng, về điện nước, v.v.. thì tính ra giá thành mỗi dịch vụ, lúc ấy sẽ biết nơi nào tiêu, nơi nào tiêu ít. Thí dụ: lấy tất cả số tiền chi cho các dân biểu, nghị sĩ, cộng thêm các chi phí tài xế, xe cộ, v.v.. Rồi chia cho số luật ban hành trong năm, thì quý vị sẽ thấy luật của ta cao nhất thế giới, mà chả ra cái trò trống gì cả. Xin quí vị đừng cười, sự thật là thế. Phải đặt trọng tâm là tìm ra giá thành dịch vụ công cộng rẻ chừng nào hay chừng nấy.
Ngoài ra, loại dịch vụ, loại dự án công tác, có thể là tân tạo, có thể biến đổi, có thể mất đi. Phải làm thế nào công chức không được nằm một chỗ, phải di động từ dịch vụ này qua dịch vụ kia, từ dự án này qua dự án kia. Phải tận dụng khả năng chuyên môn của một công chức vào một dự án. Chính cái việc một kỹ sư X được tuyển dụng vào bộ A, nhưng có bộ B lại cần cái chuyên môn của kỹ sư X nhưng không tài xin biệt phái qua giúp làm dự án. Đã từ lâu, người ta kêu gào là dùng người không đúng chỗ, chẳng qua là vì sự chia cắt cứng nhắc từng nha sở. Mỗi bộ phủ, nha sở đều có những bức tường ngăn cách vô hình, có nhiều nha thì việc nhiều người ít, có nha thì việc ít, người nhiều, phần lớn ngồi chơi xơi nước. Ngay ở bệnh viện, nhiều nữ y tá phụ mổ khan hiếm xin khản cổ không có, ngược lại nữ nhân viên choai choai thì thừa mứa, ngồi không tán gẫu.
Phải làm thế nào có một hồ sơ lý lịch chuyên môn, các khoảng thời gian tham gia các dự án của người công chức (hình như người ta đang làm thì phải). Mỗi dự án mỗi dịch vụ phải ấn định thời gian hoạt động, các phương tiện vật chất và nhân sự và phương pháp đánh giá kiểm tra hoạt động. Chỉ cần sử dụng máy điện toán là có thể sắp xếp, phân công các công chức trên các dịch vụ hoặc dự án. Sau khi hoàn thành công tác, thì công chức sẽ được trả về pool để nhận công tác mới, như vậy công chức không có cơ may mọc rễ ở một nơi náo để có thể tham nhũng. Và sau một dự án dịch vụ, người ta phải định lượng lại giá thành của dự án dịch vụ để xem hiệu quả công việc của công chức ra sao. Hiện giờ, người ta chỉ biết khoe thành tích là làm được cái này cái nọ, nhưng không cho biết hao tốn bao nhiêu đối với ngân sách quốc gia, và dân đã bị gọi "chi" bao nhiêu cho hệ thống tham nhũng. Cái này thì người ta im lìm. Lấy một thí dụ: tuyển một nhân viên thuế vụ tốn hết 250.000 đ/năm để truy thu thuế đem về được 50.000đ thì xem như vậy có đáng đồng tiền bát gạo của dân chúng hay không? Phải xem xét lại vấn đề hiệu năng của công chức. Ai cũng biết hiệu năng công chức giảm, giảm ở nha sở nào, giảm bao nhiêu. Không ai có ý niệm rõ ràng. Thành thử, khi nói đến chuyện chấn chỉnh cơ quan công quyền, mà không ai có một ý niệm rõ ràng, thì làm sao tránh được chuyện vá víu qua loa.
Tóm lại công chức phải được quản trị một cách khoa học. (Người Việt mình, từ trên xuống dưới thích nói khoa học), vì công chức là một thành tố trong việc tính giá thành dịch vụ của một dự án. Ở các nước châu Âu như Anh, Pháp, Thuỵ điển, Đan Mạch, Đức, từ 5 năm nay, người ta sử dụng máy điện toán để quản lý công chức và các phương tiện cơ sở vật chất (văn phòng, xe vộ, văn phòng phẩm, v.v..) công quyền để hướng tới một kiểu quản lý được gọi là quản trị theo mục tiêu (gestion par objectif). Những mục tiêu này có thể là những dự án đồ sộ, những dự án công ích liên quan đến nhiều bộ phủ nha sở. Người ta dùng những kỹ thuật được gọi là RCB (rationalisation des choix budgétaires - hợp lý hoá những chọn lựa ngân sách) để chi tiêu hợp lý trong mỗi dự án, vì người ta biết rằng có nhiều cách thực hiện dự án, mỗi cách có cái giá phải trả, do đó phải chọn cách nào rẻ tiền, nhưng vẫn bảo đảm kết quả. Vì bài toán thường khá phức tạp nên người ta sử dụng phương tiện điện toán.
Bây giờ, ta đi thêm một bước nữa. Đặt giả thuyết là công chức đã có một mức lương đủ sống, đã được quản trị một cách hợp lý (không có hiện tượng dùng người không đúng chỗ, hoặc ngồi chơi xơi nước) thì thử hỏi có còn tham nhũng hay không. Chúng tôi chưa chắc đã dứt được. Không phải chúng tôi bi quan hay đa nghi. Chẳng qua là tham nhũng chỉ sinh sôi nảy nở khi có một môi trường thích hợp. Do đó, muốn ngăn chặn tham nhũng, thì chỉ có cách là làm cho môi trường này trở thành "vô trùng" (aseptique).
Cho dù các công chức nhỏ ở dưới bớt tham nhũng, cho dù một số thủ tục đẻ ra quyền đã được lọc bỏ bớt, cho dù việc quản lý công chức đã được, nhưng các ông to đầu ở trên vẫn tiếp tục tham nhũng chả kể trời đất gì, thì phải làm thế nào?
Cái thời xa xưa, khi các nho sĩ ra làm quan, còn lấy đạo đức Khổng Mạnh ra làm nề nếp cai trị dân gian, chứ thời nay, sau 100 năm độ hộ của thực dân Pháp và 20 năm sống với Mỹ, kẻ sĩ tân thời ngày nay giỏi khoa học kỹ thuật của Âu Mỹ, nhưng lại bỏ mất cái đạo đức làm người của người xưa, nên tham nhũng tưới hột sen luôn, tham nhũng trên tiền tử tuất, tham nhũng trên sức khỏe của bệnh nhân, v.v.. Nghĩa là tham nhũng một cách vô hậu.
Vô số trí thức khoa bảng ngày nay chỉ dùng cái khoa học kỹ thuật của Âu Mỹ để che đậy cái túi tham vô đáy của mình: thử hỏi "người ta" được chia bao nhiêu phần trăm tiền huê hồng, khi cho nhập cảng thả dàn xe hai bánh honda dưới chiêu bài khoa học phải thoả mãn nhu cầu của thị trường tiêu thụ của dân chúng.
Làm sao trừng trị những vụ tham nhũng to tổ bố. (6*). Ai cũng biết tiền lôi theo quyền, quyền kéo theo sức mạnh (lực), sức mạnh đẻ ra tiền. Làm sao chặt được cái vòng "quyền, lực, tiền". Làm thế nào trừng trị những kẻ tham nhũng có những "gốc bự" bao che. Đã bao lần người ta kêu gào "bứng gốc bự", mà gốc bự vẫn cứng như đá vững như đồng. Không lẽ dùng các câu thần chú của thời xa xưa: như "thượng tôn pháp luật", "thượng bất chánh, hạ tắc loạn" để mong giảm tác hại của nạn tham nhũng. (7*) Hay người ta sẽ bày trò "đêm canh thức soi sáng lương tâm kẻ tham nhũng", quên rằng lương tâm kẻ sĩ bây giờ đã bị đánh cắp từ lâu rồi. Hay là người ta kêu gọi tánh tự xử của người Nhật, hoặc bắt chước gương các ông cựu thủ tướng Đức Willy Brandt, cựu thủ tướng Nhật, Tanaka. Nhưng người ta quên rằng đã tham nhũng là phải ù lì, mà đã ù lì thì làm sao mà tự xử được. Khi mà tham sân si đã chế ngự lòng người rồi, thì tự xử là cái chi chi. Cứ xem cách Thượng viện kêu gào từ chức khuyến cáo từ chức đối với ông đầu não "phân bón" thì đủ biết hiệu lực của tự xử.
Tới đây, chúng tôi xin kết thúc phần phân tích hiện trạng tham nhũng ở miền Nam để bạn biết đường mà lần, nếu bạn được giao quyền dẹp tan nạn tham nhũng. Còn theo lời của linh mục Trương Bá Cần, giám đốc Phong trào Thanh Lao Công, của phía công giáo, thì miền Bắc không hề biết tham nhũng là gì. Tin hay không là tuỳ bạn.
DƯƠNG QUANG THIỆN
Kỹ sư điện toán IBM
Saigon, 23/02/1975
Ghi chú: (14/3/2014)
(1*) Hai bài báo này đã bị đánh mất, khi cho người quen mượn đọc. Nhờ 3 bài báo này mà Thiện mỗ một thời nổi tiếng ở miền Nam trước giải phóng 1975.(2*) Bây giờ Ông Tổng Bí Thư N P Trọng bảo là "chỉ một bộ phận nhỏ"
(3*) Bây giờ ta gọi cái vòi nước là "cơ chế xin-cho".
(4*) Cuộc chiến đã qua đi gần 40 năm, mà tham nhũng vẫn còn đó, càng trầm trọng hơn, không biết khi nào là tai biến mạch máu tham nhũng.
(5*) Trong vụ Vinashin, đoàn thanh tra do ông Trần v Truyền cầm đầu thanh tra 11 lần mà không thấy nợ của Vinashin lên đến 86.000 tỉ, và các ông thanh tra vẫn tỉnh bơ, được về hưu an toàn.
(6*) Hồi thời 1975, làm chi có những vụ "siêu to tổ bố" như bây giờ: vụ Vinashin, vụ bầu Kiên, vụ Huyền Như, v.v..
(7*) Thời nay, người ta kêu gọi học tập đạo đức Hồ Chí Minh, thay thế đạo đức Khổng Mạnh của thời phong kiến.
Đã gửi từ iPad của tôi
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)