TP HCM ngày 27/10/2013
LÀM THẾ NÀO TIN HỌC HOÁ TOÀN BỘ CÁC XÍ NGHIỆP VIỆT NAM (phần 1)
Trước tiên, tôi muốn trình bày lại mục tiêu của vấn đề mà tôi mong muốn giúp giãi quyết cho đất nước và đã mời anh chị em tham gia đóng góp ý kiến.
Hiện giờ, theo tính toán của tôi dựa trên các báo chí, VN có vào khoảng 500.000 xí nghiệp & cơ quan hành chính nhà nước, đã được nối mạng và được trang bị phần cứng đầy đủ, nhưng lại không có một hệ thống thông tin (HTTT) ra hồn giúp quãn lý xí nghiệp. HTTT phần lớn không được xây dựng theo mô hình Enterprise Resource Planning (ERP) - hoạch định nguồn lực doanh nghiệp, như ở các nước tiên tiến. Vì sao nông nỗi thế này?.
Theo các nước Âu Mỹ, tại các xí nghiệp nào muốn tin học hoá thì bắt buộc phãi có một bộ phận trung tâm điện toán lo việc này, và ngườii đứng đầu của cơ quan này phãi có chức vụ phó tổng giám đốc hoặc phó giám đốc, vì ngày nay người ta quan niệm thông tin của xí nghiệp là một tài sản quý giá, phãi được khai thác một cách chính xác, có hiệu quả. Mọi quyết định quản lý được lấy ra sẽ xuất phát từ HTTT này. Chính điều này, các giám đốc công ty tư nhân cũng như lãnh đạo các cơ quan hành chính nhà nước VN chưa hề ý thức, do đó anh em IT thường than phiền là mình không được tôn trọng, nếu không nói là không được trọng vọng như ở Âu Mỹ.
Hiện giờ, tại các xi nghiệp tiên tiến tại các nước phát triển, người ta sử dụng mô hình ERP để tập trung xây dựng căn cứ dữ liệu (database) cho một HTTT quãn lý. Mô hình ERP, gồm vào khoảng 7 module cốt lõi: (1) Order Processing & Sales (OPS) - xữ lý hoá đơn & bán hàng. Module OPS này lo việc các đơn đặt hàng từ khách hàng sẽ được xữ lý thành những hoá đơn, những phiếu giao hàng, và những báo cáo bán hàng cuối kỳ; (2) Inventory Control (IC) - Tồn kho Sản Phẩm/Vật tư. Modul IC này lo ghi nhận các giao dịch xuất nhập tồn kho, tính giá trị từng giao dịch xuất kho để tính ra doanh thu, cũng như tính ra các điểm ROP và EOQ để đặt mua hàng tránh cháy hàng; (3) Account Receivable (AR) - công nợ khách hàng. Modul AR này cho biết chi tiết nợ nần của khách hàng đối với công ty xí nghiệp. Modul AR này luôn luôn liên hệ tự động với modul OPS, và modul IC; (4) Fixed Assets (FA) - tài sản cố định. Modul FA này giúp kiểm kê thường xuyên các tài sản cố định: đất đai, nhà cữa, máy móc, thiết bị, tài sản văn phòng. Đồng thời modul FA này tính tiền khấu hao hằng tháng theo loại tài sản để đưa vào giá thành sản phẩm; (5) Account Payable (AP) - công nợ nhà cung cấp. Phòng cung tiêu sử dụng modul AP này phối hợp với modul IC và Modul FA để cho ra công nợ nhà cung cấp (tài sản cố định, vật tư, sản phẩm) mà quỹ tiền mặt & ngân hàng sẽ dùng để chuẫn bị tiền phãi thanh toán cho nhà cung cấp; (6) Cash & Bank (CBK) - Tiền Mặt & Ngân Hàng. Modul CBK này theo dõi tiền mặt và tiền tại những tài khoản khác nhau ở ngân hàng. Modul CBK thường xuyên liên hệ tự động với các modul OPS, IC, AR, AP liên quan đến tiền bạc, chuyễn ngân; (7) Payroll (PAR) - Lao Động Tiền Lương. Modul PAR lo tính tiền lương cho nhân viên, kể cả các phí bảo hiểm xã hội, thuế thu nhập cá nhân. Từ tiền lương này, ta có thể tính ra giá thành sản phẩm; (8) Accounting (ACT) - kế toán. Modul ACT là modul tổng hợp các giao dịch kế toán đến từ các modul công năng khác. Modul ACT này sẽ tự động tạo ra các báo cáo tài chính nhanh hơn và chính xác. Ở trên, chúng tôi bảo rằng ERP có cả thảy 7 modul cốt lõi, nhưng ở đây chúng tôi lại liệt kê ra đến 8 modul. Thật ra, modul AR - công nợ khách hàng và modul AP - công nợ nhà cung cấp, có thể phối hợp lại thành một modul, vì cách xữ lý giống nhau, chỉ là khác chiều.
Nói tóm lại, về mặt quãn lý xí nghiệp, tại các nước tiên tiến, người ta thống nhất mô hình ERP, với một database tập trung cho toàn xí nghiệp. Các máy tính được nổi mạng. Các phòng ban làm đúng công năng bình thường, thường nhật của mình qua máy tính. Khi xong một giao dịch đặc thù của công năng của minh, thì một số giao dịch phát sinh (by product transaction) khác sẽ hiện lên tự động nhật tu các modul khác, mà trước đây các kế toán viên khác nhau trong xí nghiệp phãi lấy bằng tay, với những sai sót kèm theo. Thí dụ, khi bạn làm xong một hoá đơn, thì một số giao dịch tự động nhật tu các mặt hàng được đặt mua trên modul tồn kho IC, một giao dịch khác nhật tu công nợ khách hàng trên modul AR theo số tiền hoá đơn, v.v..
Nhìn chung thì HTTT viết theo mô hình ERP rất phức tạp khó viết. Tuy nhiên, trong thị trường phần mềm, cũng có nhiều công ty cho ra phần mềm ERP, nhưng rất mắc. Mỗi modul vào khoảng 300.000 đô (= 6 tì đồng). Phần cốt lõi (core), gồm 7 modul, cũng phãi tốn vào khoảng 40 tì đồng. Việc cài đặt và đưa vào hoạt động không dễ dàng chút nào. Nói tóm lại, phãi là đại gia, như Vinamilk, hoặc Sabeco mới kham nổi, mà chưa chắc thành công vì sự phức tạp của phần mềm. Ngoài ra, trên thị trường phần mềm. Cũng có những phần mềm mỡ, gọi là openERP, giá rẽ hơn, nhưng phãi nhờ một công ty trung gian làm giùm việc customize, nghïa là thích nghi phần mềm với tình trạng của khách hàng.
Khi sử dụng các phần mềm ERP của các hãng Oracle, SAP, Microsoft (Dynamics), hoặc của PeopleSoft, sự phức tạp của phần mềm không ai giãi thích cho bạn. Nếu có chuyên viên công ty phần mềm đến tư vấn giãi thích, thì khi họ bõ đi, những giãi thích trước kia của chuyên viên đối với bạn giống như nước đổ đầu vịt. Gan ruột phèo phổi của phần mềm được viết thế nào trong nội tạng phần mềm, bạn không bao giờ được biết. Bạn có lục tìm sách về ERP trên
Amazon.com, trên thế giới, kể cả ở đại học, bạn cũng không thấy đâu cả. Lý do rất đơn giản là các kỹ sư tin học, lập trình viên làm việc cho các công ty phần mềm ERP kể trên họ bị ràng buộc bởi một điều khoản là những gì họ làm là thuộc quyền sở hữu trí tuệ của công ty. Bạn không cỏ quyền phỗ biến chi tiết, không có quyền viết sách mô tả chi tiết về ERP v.v..
Theo nguyên tắc, nếu có một trung tâm điện toán lo việc xữ lý các dữ liệu của cơ quan/xí nghiệp, thì nhân viên sẽ gồm nhiều thành phần, kể từ dưới lên theo trình độ chuyên môn là: lập trình viên (programmer), phân tích viên (analyst), phát triển viên (developper), kiến trúc sư (architect). Trong các sách tôi viết về C# và về phân tích thiết kế HTTT, tôi thường so sánh ngành tin học cũng giống như ngành xây dựng, nhân viên ngành này thường gồm từ dưới lên: thợ hồ-thợ nề-thợ điện, kỹ sư xây dựng, công trình sư, và cuối cùng là kiến trúc sư.
Các đại học VN từ 1980 đến nay đào tạo kỹ sư tin học chỉ biết lập trình một ngôn ngữ lạc hậu nào đó, và "nghe nói sơ sơ" về phân tích (nghĩa là chưa bao giờ thực hành, vì số tiết dành cho phân tích rất là nhỏ nhoi so với số tiết của môn triết lý Mác Lê & tư tưởng Hồ Chí Minh, học viên học giống kiểu cưỡi ngựa xem hoa). Các cơ sở đào tạo tin học tư nhân, như CNIT, APTECH, FPT, .. cũng cho ra loại người như thế, nghĩa là tương đương với thợ hồ-thợ nề-thợ điện bên xây dựng. Với một đội ngũ như thế, thì làm sao có thể xây dựng HTTT quản lý đúng theo ý nghĩa của nó. Với một anh thợ hồ thợ nề thì giỏi lắm bạn cũng chỉ có thể xây một cái chòi, một cái nhà cấp 4, làm gì mà mơ xây dựng được một toà nhà chung cư cao cấp hiện đại. Do đó, không thể trách được các lãnh đạo VN là không tin tưởng tay nghề của các kỹ sư tin học được đào tạo ở VN. Bạn cứ xem lại việc Intel phãi trắc nghiệm bao nhiêu ngàn kỹ sư tin học VN để chỉ lấy được một hai chục mống, rồi còn phãi gởi ra ngoại quốc đào tạo lại, sau đó mới mong sử dụng được. Intel họ có tiền, họ mới làm chuyện ấy, chứ xí nghiệp VN thì làm gì có tiền để làm chuyện đãi cát tìm vàng. Nói một cách thô tục, là kỹ sư tin học (KSTH) được đào tạo tại VN là không xài được. Sản phẩm hoàn tất (end product) KSTH đầy khiếm khuyết. Có một bài báo than phiền là lương trã cho IT rẽ như bèo, và từ 3 năm nay không ai hăm hở đăng ký tuyển sinh vào ngành tin học. Do đó, dù lãnh đạo giáo dục VN có dự trù trong 5 năm tới sẽ đào tạo ra 1 triệu kỹ sư tin học, thì tình trạng 500.000 cơ quan/xí nghiệp ở VN đói HTTT quản lý cũng sẽ không giãi quyết được, vì sản phẩm KSTH xài không được. Tôi có cãm tưởng lãnh đạo ngành giáo dục ở VN không biết điều này, hoặc có biết nhưng không bận tâm.
Như đã nói trên, ở các nước phát triển, trung tâm điện toán làm nồng cốt, thường được gọi là lực lượng in-house, gồm 4 thành phần: lập trình viên, phân tích viên, triển khai viên và kiến trúc sư tin học. Lập trình viên khi mới ra trường vào chức vụ này sau 3-4 năm kinh nghiệm sẽ lên phân tích viên. Và phân tích viên cũng thế, bò lần lên triển khai viên. Khi bạn mới vào nghề lập trình viên thì bao giờ bạn cũng được cặp kè chỉ dẫn bởi một phân tích viên, còn phân tích viên được cặp kè với triển khai viên. Do đó, một HTTT quãn lý, sau khi được phân tích rồi được thiết kế, và được triễn khai lần lượt sẽ qua tay 4 loại người kể trên, được phân công rõ ràng. Còn ở VN, thì KSTH một thân một mình, không ai ở trên kèm cặp, chã biết xoay xở ra sao, giống như gà mắc tóc. Nếu bạn vào các diễn đàn tin học, thì bạn sẽ đọc những lời kêu cứu như sau: các bác ơi, công ty em giao cho em viết phần mềm tồn kho vật tư nguyên liệu. Em chã biết viết sao đây. Bác nào giúp em với. Ông cậu này tưởng viết phần mềm tồn kho là chỉ cần vài câu tư vấn là xong ngay. Nói tóm lại, KSTH mới ra trường, may mắn được xí nghiệp, thì bao giờ cũng đơn thương độc mã, không biết kêu với ai. Rốt cuộc chã làm gì được, chỉ đem lại sự thất vọng cho người tuyển mình vào làm.
Bây giờ, bạn xem lại ở VN, người ta làm thế nào. Các giám đốc VN họ nghĩ rằng họ chỉ cần bõ tiền ra mua mấy cái máy vi tính, cho nối mạng, rồi cài vài cái phần mềm Word, Excel, và Foxpro thế là xong, rồi thuê một cậu kỹ sư tin học nào đó (có thể là loại COCC) bảo nó viết một ứng dụng là a lê hấp chạy xong, giống như mua một chiếc xe hơi de luxe, thuê một tên tài xế, thế là rồi việc. Phần lớn các giám đốc cơ quan/xí nghiệp nghĩ đơn giãn như thế. Ngoài ra, ở đây, người ta nghỉ rằng máy tính xữ lý dữ liệu kế toán nhanh và chính xác. Đúng thế, nếu ta nhập và kiểm tra dữ liệu đầu vào một cách chính xác, thì các báo cáo tổng hợp đi sau sẽ chính xác và nhanh chóng. Nhưng khổ một nỗi là ở đại học tin học, anh/chị kỹ sư tin học không biết chi về kế toán, mù tịt về tồn kho vật tư, về công nợ khách hàng/nhà cung cấp, về khấu hao tài sản cố định, về lao động tiền lương, về xữ lý hoá đơn, khách hàng, về qũy tiền mặt và ngân hàng, về SCM, về HR, về CRM, về... ERP. Nếu các thầy dạy tin học ở trường không biết những điều vừa kể trên thì làm sao học trò biết được. Do đó, lỗi là ở bộ GDDT đã cấu trúc nội dung môn học chã ra thể thống gì cả, chứ không phãi lỗi tại các thầy. Trong thực tế, vào cuối năm 1976, một phái đoàn các nhà toán học cầm đầu bởi nhà toán học Phan Đình Diệu, vào Sai Gon đến gặp tôi suốt một tuần lễ, khi tôi đang là trưởng phòng điện toán của công ty Rượu Bia (trước là công ty BGI của Pháp, nay là Sabeco). Vì lúc ấy, người miền Nam cho tôi là "trùm điện toán", nên người ta đến gặp tôi xin ý kiến về tin học. Tôi đã chĩ dẫn tĩ mĩ đường đi nước bước. Nhưng, vì cho mình là "bên thắng cuộc", nên mang tiếng là nhà khoa học, họ đã bỏ qua những lời khuyên của tôi, thuộc bên thua cuộc. Kết quả là họ cho ra một chương trình đào tạo không ra ngô ra khoai. Ta tự làm mất đi 20 năm (+ thêm 20 năm bị Mỹ cấm vận) để cho ra những "ổ bánh mì" KSTH vô dụng, và ta sẽ tiếp tục làm như thế. Vừa rồi ông Nguyễn Thiện Nhân, trong một phát biểu, đã xác nhận ít nhiều tình trạng này, khi cho rằng không cỏ một HTTT nào ra hồn vì chưa có công trình sư. Thật ra ông muốn nỏi lớp người phân tích viên + triển khai viên + kiến trúc sư tin học, như tôi đã kể trên.
Nói tóm lại, thì với hiện tình đội ngũ nhân viên IT như thế này, thì trong một thời gian ngắn, không tài nào tin học hoá đươc 500.000 xí nghiệp/cơ quan đang đói HTTT quãn lý. Có chờ một triệu KSTH trong 5 năm tới cũng không thay đổi gì được tình hình. Do đó, người ta mới nghĩ ra một cách là dùng outsourcing hoặc dùng software as service (SaS).
Outsourcing là gì thế? Nghĩa là nguồn lực dùng tin học hoá lấy từ ngoài xí nghiệp/cơ quan đưa vào. Người ta outsourcing như thế này : xí nghiệp có một đội ngũ IT in-house đã đủ việc. Bây giờ thình lình, có một ứng dụng cũ muốn được cãi tiến, hoặc một ứng dụng mới chưa từng có trước đây muốn được đưa vào. Nhưng đội ngủ IT in-house không thể đãm đang công việc mới. Do đó, xí nghiệp kiếm một công ty viết phần mềm X ký hợp đồng viết ứng dụng. Công ty X lo mọi việc từ đầu tới cuối, nghĩa là phân tích, thiết kế, triển khai, v.v.. Đây được xem như là một ứng dụng chìa khoá trao tay. Để tiết kiệm chi phí lập trình rất mắc ở Mỹ, công ty X ký hợp đồng outsourcing với một công ty Y ở VN, lo việc lập trình mà thôi. Như vậy, việc outsourcing có đến 2 cấp. Cấp 1 từ công ty Mỹ với công ty X, cấp 2 giữa công ty X ở Mỹ với cộng ty Y ở VN. Nói tóm lại giãi pháp outsourcing chỉ là tạm thời giãi quyết "nút thắt cổ chai" của phòng IT. Tuy nhiên, phòng IT in-house phãi cỏ người biết phân tích thiết kế và triển khai thì mới lợi dụng được tính tiện ich của outsourcing. Còn ở VN ta, thì thế nào? Tôi chưa nghe thấy xí nghiệp VN nào làm việc này.
Cuối cùng, có một giãi pháp tiên tiến hơn nếu bạn có kết nối với Internet. Đó là giãi pháp SaS + cloud progranmming. SaS tắt của cụm từ Software as Service, nghĩa là một phần mềm được cung cấp cho bạn như là một dịch vụ. Bạn không mua đứt bán đoạn hoặc trã bản quyền rắc rối. Bạn dùng phần mềm qua Internet, đơn vị tính là giao dịch, xài bao nhiêu giao dịch thì trã bấy nhiêu tiền. Không xài, không trã. Còn cloud programming là lập trình theo đám mây, nghĩa dữ liệu của bạn không còn nằm trong server của bạn mà được ký thác đâu đó, xê dịch liên tục giống như mây trời. Nghĩa là giờ đây bạn không còn cài đặt server (do đó không còn hiện diện đội ngũ quãn trị mạng, không còn lo vi rut, hacker v.v..) mà dữ liệu giao cho ai đó nhờ giữ hộ. Bạn chĩ trã tiền theo dịch vụ phần mềm bạn thuê sữ dụng. Ở VN, cũng bắt đầu chớm nở loại hình dịch vụ SaS này, ở Bình Dương thì phãi. Theo chúng tôi, đây là một giãi pháp cho tương lai. Thời gian sẽ trã lời.
Tóm lại, ta có thể rút ra những điều ta cần để ý đến khi giãi quyết vấn đề trong phần 2 kế tiếp:
1. Vẫn còn đó 500.000 xí nghiệp/cơ quan chưa được tin học hoá trong một thời gian ngắn vào khoảng từ 2 đến 3 năm phãi cho xong.
2. Đội ngũ IT được đào tạo trong thời gian qua cũng như trong những năm tới không thể xài được nếu tiếp tục sử dụng theo truyền thống. Một số IT đã bỏ nghề quay ngoắt qua một nghề khác, một số lang bang không làm gì cã, một số đầu quân vào những công ty outsourcing (như công ty TMA chẵng hạn) viết chương trình cho nước ngoài, số còn lại vất vưởng trong các công ty không làm đươjc gì ra trò. Làm sao cãi tạo loại IT này.
3. Chiều hướng tới là sử dụng mô hình ERP để tin học hoá các xí nghiệp mà khỏi qua các công ty ERP đại gia như Oracle, SAP, PeopleSoft hoặc Microsoft. Làm thế nào tạo những modul, dạy cho khách hàng hiểu ý nghĩa từng modul, rồi tự học lập trình từng modul cho tới khi chạy. Làm sao đào tạo những người trong công ty thành những lâp trình viên, phân tích viên, triễn khai viên, và kiến trúc sư, không theo một phương thức truyền thống.
Tới đây, xem như bạn đã biết qua mặt mũi thế nào của vấn đề mà ta mong muốn giãi quyết.
Bây giờ tôi xin trình bày cách suy nghĩ và cách giãi quyết bài toán mà chúng tôi đã trình bày trong phần 1, và trong phần mở đầu phần 2 này.
Bây giờ ta sẽ giãi quyết thế nào trước khối lượng 500.000 xí nghiệp chưa có một HTTT "ra hồn"?. Tôi có nghe một câu nói của người Hồi Giáo như sau: nếu núi không đến với tiên tri Mahomet, thì Mahomet sẽ đi lên núi. Áp dụng cho trường hợp chúng ta, thì nếu nhân viên của 500.000 xí nghiệp không thể đến trường nghe giãng kinh tế và IT (vì khối lượng quá lớn, mà cũng không tài nào có nổi số giãng viên đủ dạy cho khối lượng người này), thì các môn kinh tế và IT phãi về đến tay các nhân viên qua Internet, thông qua những lớp online (học bất cứ giờ nào, học bất cứ nơi nào, kể cả khi ngồi xã bầu tâm sự trong cầu tiêu). Vì học trực tuyến ngay tại chỗ làm việc theo phương pháp step-by-step nên cái người ta quan tâm là kết quả làm việc, cho ra ngay sản phẩm hơn là văn bằng do lớp online cung cấp.
Các phần mềm để dạy các lớp online chạy trên nền Internet thì nay cũng đã có quá nhiều trên thị trường trên thế giới, cho phép ta chọn lựa thoãi mái. Phần mềm dạy online này thường gồm hai phần: phần A giúp giãng viên chuẫn bị giáo trình chạy online. Khi phần A được chuẫn bị xong thì được nạp lên phần B, và khi người học đăng ký môn học, thì phần B lo quãn lý sự học hành của sinh viên đã đăng ký. Phần B theo dõi mọi thứ trong việc học của sinh viên: giờ giấc, nhịp độ, thời lượng, trắc nghiệm giữa kỳ và cuối kỳ, qui chiếu về những phần phãi tham khảo khi trã lời sai trước những câu quiz. Nói tóm lại, giờ đây với hạ tầng cơ sở truyền thông bẳng Internet, phương pháp dạy online giúp ta giãi quyết dạy thực tập một số lượng lớn người học với một phí tổn hầu như bẳng zero. Riêng chúng tôi, thì nhóm Khai Trí Business Information System (BIS) đã đề nghị sử dụng phần mềm Moodle trong việc dạy online. Chúng tôi nghiên cứu phần mềm miễn phí này.
Như vậy, với Internet và phương pháp dạy online, ta có cơ hội dạy cùng lúc cho một số lớn xí nghiệp cách làm thế nào tự tin học hoá việc quãn lý sử dụng máy tính và tự thành lập một HTTT quãn lý cho mình mà khỏi phãi sự trợ giúp của các công ty phần mềm Oracle, SAP, v.v.. hoặc của các công ty outsourcing. Vấn đề là tạo ra một nội dung cho mỗi các môn học hình thành những modul của mô hình ERP như ta đã giãi thích trong phần 1.