Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 23 tháng 9, 2018

Mười Ngôn Ngữ Lập Trình Sáng giá nhất năm 2018



10 Ngôn ngữ lập trình sáng giá nhất
Cách đây 44  năm khi Ông Già Thiện (OGT) vào đầu quân cho IBM France ở Paris, và 2 năm sau đó, 1965, về lại Việt Nam,  một tuần trước khi Mỹ đỗ bộ Đà Nẵng tiến hành một cuộc chiến can thiệp, thì OGT chỉ biết các ngôn ngữ lập trình (NNLT) Fortran, COBOL và RPG 2 của IBM. Thời đó, 1965, người ta chỉ biết 3 ngôn  ngữ lập trình kể trên. IBM thì chỉ trung thành với RPG (Report Program Generator) từ RPG1  nay RPG 4. Còn ngoài đời nay thì NNLT xuất hiện vô số loạn như cào cào.
Hình 1 dưới đây cho thấy việc sữ dụng NNLT trong nhiều lĩnh vực khác nhau.

Do đó, trước khi bạn quyết định xây dựng ứng dụng của mình, hãy xem xu hướng lập trình mà hầu hết các công ty gia công CNTT đang theo dõi vào năm 2018, như theo Hình 2 cho thấy bảng xếp hạng của các NNLT. Nó sẽ giúp bạn hiểu rõ về ngôn ngữ lập trình nào là hoàn hảo cho dự án của bạn.

(1) JAVASCRIPT  

Theo một nghiên cứu của Redmonk (trụ sở của Microsft), thì JavaScript được đặt nằm ở đầu danh sách xếp hạng. Với Angular JS, React JS, Vue JS, phát triển nhanh, Node JS có nhiều tính năng và nhiều khung tác vụ (framework), JavaScript đang phát triển rất nhanh và các nhà phát triển thuộc các công ty gia công phần mềm hàng đầu đều muốn học ngôn ngữ này hơn bao giờ hết .

(a) Định nghĩa:  
JavaScript là một ngôn ngữ lập trình (NNLT)  cao cấp, năng động, thuộc loại diễn dịch (interpreted). . Nó hỗ trợ phong cách lập trình thiên đối tượng (OOP), theo kiểu mệnh lệnh (imperative) và theo kiểu chức năng (functional), được sử dụng để tạo hiệu ứng tương tác mạng web, cho phép xây dựng giao diện người dùng (UI) phong phú bằng cách kéo dữ liệu API và tương tác với vô số các hệ thống khác nhau. Nó tương tác và xây dựng HTML ngay trên trang bằng thao tác các tài liệu HTML trong cửa sổ. V8 JavaScript Engine là một công cụ mã nguồn mở được phát triển bởi dự án Crome cho trình duyệt Web Chrome của Google. Mozilla Firefox, Mozilla Thunderbird và MongoDB là một số phần mềm mã nguồn mở được phát triển sữ dụng JavaScript. Trong khi bạn mở rộng trang web của bạn, thì JavaScript là một chức năng vô cùng có ích khi nó cho  phép  hỗ trợ bạn trong việc tạo ra các thông tin liên lạc cho website của bạn. Bạn có thể sử dụng các khung tác vụ (framework) khác nhau trong JavaScript để xây dựng giao diện người dùng (UI) tuyệt vời. Khi bạn đang phát triển web, thì việc biết rành JavaScript là rất quan trọng để làm cho trang web tương tác. JavaScript còn bao gồm hình ảnh động trên các trang web, tải hình ảnh tươi, kịch bản hoặc các đối tượng trên trang web. 

(b) Công dụng của JavaScript:

Bạn có thể làm gì với Javascript? Javascript  không chỉ được sử dụng để cho lên hương trang web của bạn, mà nó cũng có thể đưa vào những thứ như kiểm tra hợp lệ hoặc  trò chơi. Bạn nên nghĩ đến JavaScript như là phản ứng mạng trước những hành động đặc biệt của người dùng. Hơn nữa, với sự trợ giúp của JavaScript MV *, việc xây dựng các ứng dụng phức tạp dễ dàng hơn với ít dòng mã hơn và tốn ít thời gian hơn. Các ứng dụng web này có thể dễ dàng chuyển thành các ứng dụng di động nền tảng chéo với sự trợ giúp của PhoneGap, Xamarin và các công nghệ khác sẽ giúp công việc của bạn hoàn thành trong một lần thử.
  
(c) Ai là người sử dụng JavaScript? 
Đó là những nhà phát triển mạng tiền tiêu (web front-end) và mạng hậu cứ (web back-end). JavaScript thường được sử dụng nhiều trên  các ngành công nghiệp.  

(2) JAVA 8.0

Người ta bảo ngôn ngữ Java là một NNLT hoàn hảo nhất cũng như thịnh hành nhất dành cho phát triễn viên (developer) và cho lập trình viên (LTV). Hiện Java đứng đầu danh sách các NNLT được chọn dạy ở đại học.
Với 22,6% thị phần Java là một thống trị xu hướng lập trình và duy trì di sản của nó từ nhiều năm. Mặc dù gần đây Java đã trở nên khá phổ biến như các NNLT khác đang diễn ra.

(a) Định nghĩa:
Java là một NNLT có thể chạy song hành (concurrent), thiên đối tượng, và  đa năng (general-purpose), được dùng (1) lập trình các ứng dụng mobile, và ứng dụng Web; (2) lập trình các ứng dụng máy tính để bàn (desktop); (3) xây dựng các Android app cho tablet và cho smartphone; (4) tạo những giao diện đồ hoạ người dùng (GUI) rất tinh vi. Java là một NNLT phổ dụng có thể chạy hầu hết trên bất cứ loại máy tính nào, và hoàn toàn độc lập đối với thiết bị lẫn sàn diễn (platform). Java là một NNLT thiên đối tượng (object-ỏiented programming - OOP). Nghĩa là chương trình cơ bản được hình thành bởi những module mã, giống như những con lego, mà ta cỏ thể đem dùng trong các chương trình khác khỏi phãi viết lại.  

(b) Công dụng
OpenJDK (Open Java Development Kit) là một Java Platform Standard Edition (Java SE), một thi công mã nguồn mỡ và miễn phí của Java, và từ phiên bản 7 trở đi được xem là qui chiếu thi công (reference implementation) của Java.  Một vài phần mếm mã nguồn mỡ được phát triển sử dụng Java bao gồm Android, Weka, Apache Tomcat, Qt, Eclipse, NetBeans and Apache Hadoop. Các hệ điều hành thường dùng C hoặc ngôn ngữ Assembly, nhưng Java cũng hiện diện ở đây. Mặc dầu rất thịnh hành hệ điều hành JNode cũng được triễn khai sữ dụng hoàn toàn Java. Java 8 nhanh hơn nhiều so với trước và với ít dòng mã hơn, một ứng dụng giàu tính năng có thể được xây dựng. Ngay cả phiên bản mới nhất đã được phát hành vào năm 2014, các tính năng vẫn hữu ích và tiết kiệm chi phí cho các doanh nghiệp.
  
(c) Ai dùng Java? 
Các LTV gọi là triễn khai viên hậu cứ (backend developer), trong các ngành đòi hỏi hiệu quả cao và an ninh chẵng hạn tài chinh, săn sóc sức khoẻ (healthcare) và an ninh thường chọn Java, kể cả kỹ nghệ game.


(3) PYTHON 

(a) Định nghĩa: 
PYTHON là ngôn ngữ gì thế?. Xin thưa: đây là NNLT thiên đối tượng (OOP) nỗi tiếng cú pháp rõ ràng cũng như chương trình sáng sủa, ngắn gọn và dễ đọc. JPython là một NNLT cấp cao, general-purpose, mang tính thông dịch (interpreted), và năng động, dùng phát triển các ứng dụng xí nghiệp cũng như ứng dụng Web. Nó hỗ trợ các khái niệm lập trình thiên đối tượng, và lập trình kiểu mệnh lệnh (imperative) cũng như lập trình chức năng (functional).
Một trình thông dịch mã nguồn mở (open source interpreter) mang tên CPython là qui chiếu triễn khai mặc nhiên của Python. Do đó,  Python có thể cuối cùng được gọi là một NNLT mã nguồn mở. Blender, Dropbox, BitBake, SageMath, YUM, OpenStack, Mercurial, Django, PyGTK, SciPy, etc, là một vài phần mềm mã nguồn mở được phát triền với Python. 
Nếu người ta bảo Java hoặc C++ là verbose, nghĩa là "lãi nhãi dài dòng văn tự", thi ngược lại, chương trình viết theo Python ngắn gọn, dễ đọc dễ hiểu, không mất thời giờ với cú pháp rườm rà khó hiểu như với Java hoặc C++. Python có thể hoàn tất cùng công tác với vài dòng mã lệnh, mang tính trực quan và tự nhiên. Do đó, Python là NNLT rất hoàn chỉnh cho những ai mới vào nghề. Sinh viên lo tập trung vào các khái niệm và cấu trúc lập trình.
(b)  Công dụng :
Với Python, bạn làm được gì? Xin thưa: bạn có thể dùng Python để viết các ứng dụng máy tính để bàn (desktop app), giao diện người sữ dụng (UI) cũng như ứng dụng web. Ngoài ra, người ta sử dụng Python trong khoa học để phân tích dữ liệu.
(c) Ai sẽ dùng Python? 
Đó là các kỹ sư dữ liệu (data engineers), các nhà khoa học dữ liệu (data scientists), cũng như các nhà triễn khai (developers hoặc dev) sẽ dùng Python. Python không mang tính đặc trưng kỹ nghệ, mà là đặc trưng theo tác vụ (task), nghĩa là quan trọng dành cho data processing, business intelligence, và vài triễn khai ứng dụng.
Python là thực sự đạt được tất cả các buzz những ngày này. Ngôn ngữ này được các nhà khoa học dữ liệu và các nhà phân tích dữ liệu chấp nhận rộng rãi, nó cũng trở thành một ngôn ngữ rất hữu ích cho các kỹ sư phần mềm, các nhà phát triển phần mềm, các nhà phát triển, các nhà quản lý, kỹ sư, các nhà phân tích hệ thống và các nhà phát triển web.
Theo báo cáo PYPL PopularitY về ngôn ngữ lập trình, Python có 16,4% thị phần và được coi là ngôn ngữ phổ biến thứ hai như tìm kiếm các hướng dẫn trên Google. Ngoài ra nó là một trong những ngôn ngữ hàng đầu đặt xu hướng lập trình trong Trí tuệ nhân tạo.

(4) Nhóm C, C++  C#

 Bạn có thể nâng cao kiến thức của bạn bằng cách tìm hiểu về C năm nay. Đó là ngôn ngữ lập trình duy nhất lâu đời nhất, nên được học trước nhất khi bạn khởi nghiệp, và C chủ yếu cho phép hình thành các phần mềm khác nhau. C++  chút tiến bộ hơn C, và được sử dụng trong việc tạo phần cứng trong các trò chơi tốc độ. C++ là một lựa chọn lý tưởng cho các phần mềm máy tính để bàn cũng như các ứng dụng cho điện thoại di động.  Được biết đến như là ngôn ngữ mạnh mẽ, C++ được áp dụng trong hệ điều hành rất quan trọng, chẳng hạn như Windows. Sau khi học xong C/C++, bạn có thể làm quen với ngôn ngữ C#. C# cũng không khó khăn chi mấy khi bạn đã kinh qua C và C++ . C# là ngôn ngữ thực sự đắc dịa đối với các ứng dụng cũng như dịch vụ của Microsoft. Khi tiếp cận với công nghệ ASP và NETngười ta đòi hỏi bạn phãi rành C# một cách chính xác
(4.1) C

C là một NNLT rất phổ biến được sử dụng cho việc phát triển điện thoại di động, các ứng dụng doanh nghiệp và các ứng được đặt lọt thỏm (embedded).là một ngôn ngữ biên dịch, theo kiểu lập trình mệnh lệnh. Với bảy của top 10 NNLT, thuộc dòng họ C, thì C sẽ mãi mãi được yêu thích bởi những người trong các học viện là người đầu tiên lập trình ngôn ngữ giảng dạy. Các NNLT  bảy trong danh sách này thuộc về gia đình C là C, C++, C#, Go, Java, PHP và SWIFT 3 trình biên dịch mã nguồn mở cho sàn diễn Linux là gcc, clang và pcc. C được sử dụng trong sự phát triển của các hạt nhân Linux và mã nguồn mở phần mềm như Mozilla Firefox, Wireshark, MySQL, Android, Máy xay sinh tố, GIMP, Mozilla Thunderbird, VLC Media Player, VirtualBox, CMake, MariaDB, PyGTK, SciPy, MongoDB, PHP, vv.

(4.2) C++
C++  cũng là một NNLT dùng phát triển các ứng dụng cho mobile, cho xí nghiệp cũng như các ứng dụng đặt lọt thỏm (embedded applications). C++ là một NNLT biên dịch với các tính năng kiểu lệnh (imperative) và thiên đối tượng. Lúc ban đầu khởi đi, C++ chỉ là một phiên bản của C với những lớp và đối tương được cài sẵn (built-in). Nhưng theo năm tháng C++ trở nên chín chắn và hoàn toàn độc lập nên được sữ dụng rộng rãi  trong xí nghiệp. C++ sau này đứng trong danh sách 5 NNLT đứng đầu. Một trình biên dịc mã nguồn mỡ của C++ dành cho sàn diễn Linux mang tên g++ Một vài dự án mã nguồn mỡ thịnh hành được triễn khai với C++ bao gồm Mozilla Firefox, MySQL, Android, Blender, LibreCAD, 7-Zip, Mozilla Thunderbird, Chromium, Wireshark, VLC Media Player, VirtualBox, Doxygen, CMake, MariaDB, Code::Blocks, SciPy, PHP and MongoDB. 
(4.3) C#
C# là một NNLT được phát triển bởi Microsoft. C# được sử dụng để phát triển Web, ứng dụng điện thoại di động cũng như ứng dụng quản trị doanh nghiệp. C# chấp nhận kiều lập trình theo mệnh lệnh, theo chức năng cũng như theo hướng đối tượng. Mặc dù có một vài mơ hồ, C# được xem là một ngôn ngữ biên dịch bởi hầu hết các lập trình viên. C# vẫn còn rất phổ biến được xếp hạng 5 hàng đầu. trong ba trong số bốn bảng xếp hạng. Tính phổ biến của nó đã giảm xuống một chút trong vài năm gần đây. Nhưng chúng tôi vẫn cần phải chờ đợi thêm để dự đoán một xu hướng rõ ràng về việc phổ biến của nó . Mono là một triễn khai mã nguồn mở của Microsoft .NET Framework dựa trên các tiêu chuẩn ECMA đối với C# và Common Language Runtime (CLR). Nó được phát triển bởi Xamarin, một chi nhánh của Microsoft. Vì sự tồn tại của  trình biên dịch mã nguồn m Mono, C# có thể cũng được coi như là một mã nguồn mở  ngôn ngữ lập trìnhC# không được sử dụng nhiều trong phát triển phần mềm mã nguồn mở, có tính năng chỉ có trong các dự án tương đối nhỏ như EasyERP, MixERP, uManage, ColorSharp, vv. 
(5) PHP 7.0
(a) Định nghĩa: 

PHP là một ngôn ngữ kịch bản đa năng phù hợp để phát triển Web phía máy chủ. PHP là một ngôn ngữ kịch bản diễn dịch phía máy chũ (server)  với trình thông dịch cho hầu hết các sàn diễn (platform) . Sự tồn tại của Zend Engine, một trình thông dịch mã nguồn mở, biến  PHP thành một ngôn ngữ lập trình mã nguồn mở. PHP sử dụng rộng rãi trong việc phát triển các dự án mã nguồn mở như Drupal, Joomla, WordPress, Moodle, vv. 

(b) Công dụng: 

Bạn có thể làm gì với PHP? PHP có thể được sử dụng trong nhiều cách, bao gồm cả việc tạo nội dung trang năng động, tương tác với các tập tin máy chủ trong vô số cách, thu thập các dữ liệu biểu mẫu, gửi và nhận tập tin cookie, và thay đổi cơ sở dữ liệu dữ liệu  
PHP đã ở đây trong một thời gian dài. Một số người nói rằng PHP sắp chết. Tuy nhiên, PHP vẫn còn sống và vẫn còn trong xu hướng lập trình. Với PHP 7, phiên bản mới nhất, mọi thứ sẽ khác đi. Trong quá khứ, PHP là một cách đơn giản để xây dựng một vài trang web động. Nếu bạn cần một chút đa dạng, bạn có thể nhúng mã đơn giản giữa các thẻ HTML. Nó đủ cơ bản để các nhà phát triển web nắm lấy nó, nhưng đủ chậm để thu hút những kẻ chế nhạo từ những người lập trình lõi cứng.
Bây giờ thật dễ dàng để thực thi mã PHP nhanh hơn bao giờ hết bằng cách kết hợp công nghệ trình biên dịch Just-in-Time như Java. Bây giờ các công cụ như HipHop Virtual Machine và PHP 7.0 đang cung cấp tốc độ nhanh gấp hai lần so với các phiên bản cũ. Mặc dù nó đã mất thị phần 5,1% trong 5 năm qua nhưng nó là một trong những ngôn ngữ hàng đầu mà các công ty gia công phần mềm CNTT thích xây dựng các trang web tuyệt vời. Các nhà phát triển web nên tìm hiểu về PHP hay Hypertext Preprocessor, một ngôn ngữ lập trình nổi tiếng.Với sự giúp đỡ của PHP, bạn có thể phóng to một ứng dụng web rất nhanh chóng và dễ dàng.PHP là nền tảng thực tế của nhiều hệ thống mạnh mẽ quản lý nội dung, ví dụ, WordPress.PHP thực sự là một ngôn ngữ lập trình có giá trị cho các nhà phát triển và các lập trình viên.PHP là gì? PHP là một từ viết tắt đệ quy cho Hypertext Preprocessor.Nó là một ngôn ngữ kịch bản phía máy chủ, một trong những nguồn thường được đóng gói với các cơ sở dữ liệu được viết trong SQL.Bạn có thể làm gì với nó? PHP có thể được sử dụng trong nhiều cách, bao gồm cả việc tạo nội dung trang năng động, tương tác với các tập tin máy chủ trong vô số cách, thu thập các dữ liệu biểu mẫu, gửi và nhận tập tin cookie, và thay đổi cơ sở dữ liệu dữ liệu.
(c) Ai là người sử dụng PHP? 
PHP là phổ biến trong số các nhà phát triển web back-end, bởi vì nó rất dễ sử dụng, với rất nhiều tài liệu và hỗ trợ cộng đồng.

(6) Ruby & Ruby on Rails

Ngôn ngữ lập trình phổ biến khác là Ruby và Ruby on Rails. NNLT này dễ học và cũng rất mạnh mẽ và trơn tru (clear-cut). Nếu bạn không có nhiều thời gian nhưng  vẫn muốn xậy dựng bất kỳ dự án nào, và sau đó bạn chắc chắn là có thể sử dụng Ruby. Ruby được sữ dụng rất nhiều để lập trình web, và do đó hóa ra là sự lựa chọn lý tưởng cho các công ty mới bắt đầu.  
(6.1) Ruby
Ruby là một NNLT đa năng, năng động. Nó hỗ trợ nhiều kiểu  lập trình, bao gồm kiều chức năng, kiểu mệnh lệnh và kiểu thiên đối tượng.Trình biên dịch Matz's Ruby (Ruby MRI) là qui chiếu triển khai của Ruby và sử dụng giấy bản quyền Ruby, được chấp thuận bởi Free Software Foundation .Sự phổ biến của Ruby dường như giảm nhẹ trong những năm qua. Các dự án mã nguồn mở phổ biến sử dụng Ruby bao gồm Ruby on Rails, một framework ứng dụng Web và  Merb, một tiền thân của Ruby on Rails.Vì vậy, Ruby cũng có mã nguồn mở vừa phải.  
(6.2) . RUBY ON RAILS (“RAILS”)

Ruby on Rails là cái gì thế ?
Ruby on Rails là một khung tác vụ (framework) web với đầy đủ tính năng được xây dựng dựa theo Ruby (một NNLT) cho phép phát triển web mạnh mẽ. 

Bạn có thể làm gì với nó?
Ruby là một NNLT năng động, reflective, thiên đối tượng, đa năng cho phép giúp nhanh chóng có được một trang web và chạy.

Học Ruby On Rails thế nào ? 
Ruby là một ngôn ngữ tuyệt vời cho người mới bắt đầu vì tính cách linh hoạt và uyển chuyển, và Ruby on Rails là một khung tác vụ tuyệt vời cho những người mới bắt đầu bằng việc họ xây dựng trên web một cách nhanh chóng, dễ dàng, và khã dĩ duy tu bão dưỡng dễ dàng. .Nó cũng là một cách giúp tìm hiểu tuyệt vời nhiều khía cạnh của sự phát triển vì bạn sẽ kết thúc việc học một số HTML, CSS, và Javascript.

Tại sao có nhu cầu? 
Ruby on Rails là rất phổ biến và rất nhiều trang web lớn nhất (Airbnb, Basecamp, Groupon, Kickstarter) được xây dựng theo Ruby on Rails. 

Ai sử dụng Rails? 
Đó là những nhà phát triển phần hậu cứ web khi khởi nghiệp cũng như tất cả các tập đoàn lớn.  
(7) Swift

Swift được phản ánh như là NNLT cho mở rộng ứng dụng đối với sản phẩm của Apple. Ngôn ngữ này có thể được sử dụng để xây dựng ứng dụng cho iOS lo kích hoạt thiết bị và Apple MAC một cách nhanh gọn và đơn giản. Nếu bạn mong muốn mở rộng một ứng dụng tuyệt vời iOS, thì nên học NNLT Swift này.

(8) GO
GO là một NNLT  tương đối mới xuất hiện đầu tiên trong năm 2009. Nó là thuộc loại NNLT biên dịch được tạo ra bởi Google được sử dụng chủ yếu cho sự phát triển các ứng dụng quản trị doanh nghiệp cũng như các ứng dụng Web. GO hỗ trợ lập trình kiểu song hành và kiểu mệnh lệnh. Có hai trình biên dịch mã nguồn mở đối với GO : GC từ Google và GCCGO từ GCC. GC là một trình biên xuyên sàn diễn (cross-platform) làm cho GO trở thành một NNLT mã nguồn mở. Nếu bạn thực sự muốn là một phần của phát triển phần mềm mã nguồn mở, thì GO là NNLT tiếp theo mà bạn phải tìm hiểu. Docker là một phần mềm mã nguồn mở được phát triển từ GO..Các tập tin lưu trữ dịch vụ Dropbox, cũng được phát triển sử dụng GO. 
(9) Scala

Scala, một NNLT đa năng được thiết kế cho ngắn gọn và chủ yếu hoàn thành những thiếu sót của Java . Mã nguồn của nó được dự định sẽ được biên dịch theo bytecode của Java để cho ra mã kết xuất chạy trên một máy ảo Java. Ngoài ra, như tên gọi của nó, Scala được thiết kế để phát triển theo nhu cầu. Do đó, nó có một nhu cầu lớn trong số các công ty gia công phần mềm CNTT, những người biết những thiếu sót của Java và sử dụng nó như là một sự thay thế. 

(10) R

R là ngôn ngữ ưa chuộng nhất đối với các nhà thống kê ngày càng tăng, các nhà khoa học dữ liệu, cũng như các nhà phân tích dữ liệu và các loại phân tích khác 




Thứ Ba, 29 tháng 5, 2018

72.000 CỮ NHÂN THẤT NGHIỆP VÀ NGÀNH GIÁO DỤC SẼ GIÃI QUYẾT THẾ NÀO?

72.000 CỮ NHÂN THẤT NGHIỆP VÀ NGÀNH GIÁO DỤC SẼ GIÃI QUYẾT THẾ NÀO? Hiện tượng sinh viên ra trường kiếm không ra công ăn việc làm, rồi đành đăng ký học tiếp lên thạc sĩ, là chuyện thường tình ở các nước Âu Mỹ. Số này đã lên 20%. Cái mà các nước Âu Mỹ đang lo sốt vó, đó là số sinh viên ra trường nợ nhà nước tiền vay đi học đã khá lớn. Ở Mỹ, sinh viên nợ nhà nước vào khoảng 2.000 tỉ đô. Một con số kinh khủng: 40 triệu tỉ đồng VN, 8 lần GDP của VN. Do đó, vấn đề của VN không đến nỗi nghiêm trọng. Theo Thiện mỗ nhận thấy, thì trong số 72.000 cữ nhân này, phần lớn là các con em ở các tĩnh, các vùng quê, thuộc thành phần nông dân, muốn đi học cao để khỏi làm nông dân cực khổ. Do đó, họ muốn ở lại thành thị, không muốn về lại quê. Ngoài ra, người ta dạy cho sinh viên ra trường cái tâm lý là xách bằng đi xin việc, sau khi tốt nghiệp. Vậy ai là người tạo công ăn việc làm cho ta. Các công ty đa quốc gia như IBM, Intel, Honeywell, Oracle, hoặc các công ty FDI? Không phải chỉ ở VN đâu, mà ở châu Âu Mỹ cũng thế. Bây giờ, người ta mới nhận thấy là ngay từ khi ở ghế nhà trường, phải tập cho sinh viên cái tinh thần khởi nghiệp (start up) tự mình phải suy nghĩ tìm tòi tạo một ngành nghề mới đem lại công ăn việc làm cho mình và cho những người chưa đi học. Đó là lý do vì sao tôi tư vấn cho cô thạc sỉ ở Úc về, cô Đào thị Hằng, làm cái nghề bán mắm, trong khi cô ta chuyên ngành biến đổi khí hậu. Một quốc gia muốn phát triển, thì phải có một đội ngủ trí thức có óc sáng tạo và khởi nghiệp, từ những cái nhỏ nhất trở đi. Khoang nghỉ tới chuyện to tát lên cung trăng. Cách đây 53 năm, khi tôi đang làm việc và lấy vợ Thuỵ Sĩ, thì bà già vợ người Thuỵ Sĩ thường lấy kinh thánh ra giãi thích tình hình kinh tế thế giới. Theo kinh thánh thì bao giờ cũng cỏ 7 năm bò béo, 7 năm bò gầy. Bò béo để chỉ sung túc, còn bò gầy chỉ khốn khổ. Do đó, áp dụng cho Việt Nam, thì từ 2001 đến 2007 là những năm bò béo, còn từ 2008 đến 2014 là bò gầy. Bạn thữ kiểm tra xem có đúng không. 2008 là năm BDS bị khủng khoảng ở Mỹ và ở VN. GDP của VN từ 13,5% xuống còn 5,5%. Bây giờ 2014, những năm bò gầy cũng sắp hết, chắc là sang năm tới kinh tế sẽ ấm dần lên, nếu trong năm 2014 này ta biết chuẩn bị cho cuộc đua 7 năm bò béo kế tiếp. Còn chuyện 72.000 "nhà trí thức, hết gạo chạy rông", người thì đổ lỗi cho tư vấn sai (cô Appricot Lee chớ có buồn lòng), người thì bảo phụ huynh và sinh viên đã chọn sai đường, người thì đổ lỗi cho nhà nước không biết dự đoán nguồn nhân lực trong tương lai là gì. Ai cũng cho là người khác sai, còn mình thì đúng nhưng kết quả là đúng trong cái sai là "hết gạo chạy rông". Bây giờ, ta thử chơi trò phân tích vấn đề: (1) các nhà tư vấn không biết lý thuyết bò gầy bò béo của Kinh Thánh. Các nhà diễn thuyết chém gió không nghĩ đến tra cứu Kinh Thánh về vụ này; (2) khi tư vấn bạn chọn một ngành nào đó, cho đến khi bạn ra trường, có một thời gian 4 năm gọi là lead-time. Do đó, nếu ta bắt đầu 2001, là bắt đầu chu kỳ bò béo, thì những ngành hot được tư vấn khi ra trường vào 2005 đến 2009 ai ai cũng có việc làm vì là những năm trong chu kỳ bò béo. Nhưng những ai được tư vấn từ những năm 2005 đến 2008, thì họ vẫn được tư vấn y như trước do kết quả tốt của 4 năm bò béo, và do lead time nên chỉ qua 2009 trở đi, do là ở trong chu kỳ bò gầy, "cục sạn thất nghiệp" bắt đầu tích luỹ lớn dần lên đến 2013 người ta bắt đầu thấy rõ, nên bây giờ than van. Kết luận là chã có ai sai cả. Chỉ có điều người ta không biết đến chu kỳ bò béo bò gầy và lead-time (yếu tố này có trong tồn kho, ERP) mà thôi, nên trách họ là oan. Trong một blog của tôi, tôi đã từng viết như sau: "Con người ta sinh ra, không phải chỉ để ăn như nhiều người bỡn cợt nói thế, mà thực chất là để giải quyết các vấn đề cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội, cho đất nước hoặc cho nhân loại. Các vấn đề là muôn hình vạn trạng, thượng vàng hạ cám. Mà muốn giải quyết vấn đề thì phải học. Học từ khi còn tấm bé trong gia đình, rồi học khi vào trường tiểu học trung học, rồi ở đại học, rồi học ở trường đời khi đi làm việc. Nói tóm lại, là phải học cách giải quyết các vấn đề. Có các vấn đề trong quá khứ, hiện xảy ra trong hiện tại, đã được đúc kết trong sách vở mà ta phải học. Tứ thư Ngũ kinh của thời nho giáo TQ là những bài học đúc kết của người xưa giải quyết các vấn đề đạo đức, lễ nghĩa, kinh bang tế thế (kinh tế), v.v.. xảy ra trong xã hội. Ngày nay, trong các trường cao đẳng, kỹ thuật, kinh tế, ta cũng chẳng qua học cách giải quyết các vấn đề quá khứ xa xưa nhưng nay với cặp mắt khoa học hơn, nhưng nói chung là học giải quyết các vấn đề quá khứ nhưng vẫn tiếp diễn trong hiện tại. Có những vấn đề đã bị lỗi thời biến mất khỏi cuộc sống của chúng ta, nhưng cũng có những vấn đề mới sẽ xuất hiện trong tương lai, mà ta sẽ phải có phòng thí nghiệm học tìm cách giải quyết. Nói tóm lại, giáo dục chẳng qua là cách dạy con người giải quyết vấn đề của hiện tại và của tương lai. Nếu giáo dục giúp đào tạo đúng và đủ người để giải quyết các vấn đề xảy ra trong mọi môi trường thì đây là một nền giáo dục tốt. Một nền giáo dục đào tạo được những con người có thể giải quyết vấn đề một cách ngon lành là một nền giáo dục tốt. Thế thôi." Các bạn có biết không: cái ngành nghề điện toán, tin học, lập trình mà chúng tôi theo đuổi suốt đúng 50 năm nay (tôi vào IBM France, vào ngày 2/1/1964), và chưa chấm dứt thế mới chết chứ khi tuổi còn vài ngày nữa là sắp qua 81, khi đem ứng dụng vào đời sống kinh tế hành chánh, là giúp giãi quyết các vấn đề đã và sẽ xãy ra trong xã hội. Do đó, khi viết chương trình, ngoài phần chính, gọi là main solution, chúng tôi bao giờ cũng phải trù liệu phần alternate (còn gọi là phần error, hoặc phần exception) trù liệu thực tế của cuộc sống. Chính vì các lập trình viên được đào tạo ở VN không học trù liệu phần error & exception nên các chương trình không khả tin, đầy sai lầm. Xin lỗi là hơn cà kê dê ngỗng, nhưng rất cần thiết cho sự hiểu biết cần thiết về sau. Bây giờ, tôi xin trở về vấn đề thất nghiệp của chúng ta. Nếu bạn chấp nhận cái nguyên lý mà chúng tôi đã đề ra ở trên: giáo dục chẵng qua là một quá trình dạy cho con người cách giãi quyết các vấn đề xãy ra trong xã hội. Và ngành điện toán cũng là ngành giãi quyết các vấn đề, nhưng sử dụng máy tính là công cụ. Do đó, con người và máy điện toán đều cùng một mục tiêu: giãi quyết một vấn đề, nhưng con người làm bằng tay (với nhiều sai sót và chậm chạp), còn máy tính là tự động, thông qua các chương trình phần mềm (chính xác và nhanh chóng). Nếu bạn chấp nhận ý kiến như sau: sinh viên ra trường là sản phẩm hoàn tất (end product) của một nền giáo dục theo kiểu sản xuất hằng loạt. Như vậy, sinh viên ra trường sẽ đi về những khách hàng tiêu thụ tiềm năng: là những cơ quan công quyền, các xí nghiệp quốc doanh hoặc tư doanh, các tổ chức, đoàn thể. Nếu số sinh viên được nền giáo dục đào tạo ra khớp với số lao động mà các khách hàng cần đến thì là lý tưởng và ta gọi là chính sách toàn dụng (full employment). Nhưng ít khi xảy ra. Số người không được sử dụng khi ra trường sẽ tham gia và đội quân thất nghiệp. Như vậy, nếu nhìn vấn đề theo lăng kính của ngành điện toán, thì số người vào được thị trường lao động là main solution của chương trình nhân dụng, còn số dân thất nghiệp là phần error hoặc exception hoặc alternate của chương trình nhân dụng. Bộ giáo dục là tác nhân thực hiện chương trình giáo dục và đào tạo phải trù liệu hai phần main solution và phần alternate/exception. Nếu không làm được thì đúng là Bộ bất tài. Bộ GDDT sẽ nói rằng rất khó xây dựng phần alternate vì nó liên quan đến nhiều bộ, mà lấy số liệu của các ngành khác thì rất cam go vì cái tính bảo mật của từng cơ quan công quyền cũng như tư nhân. Nói vậy, thì làm thế nào các công ty ngoại quốc, như Mc Donalds chẵng hạn, muốn chiếm lĩnh thị trường VN khi mà họ không biết chi về dân VN. Tới đây, theo nguyên tắc bạn đã đồng ý với Thiện mỗ những nguyên lý sau đây đã được đề xuất trong các phần đi trước: Nguyên lý #1: Giáo dục là cách giúp con người ta học hỏi những cách giãi quyết các vấn đề xãy ra trong bản thân con người, trong xã hội, quốc gia và thế giới. Nguyên lý #2: Sinh viên ra trường là sản phẩm hoàn tất (end product) của một nền giáo dục đúng nghĩa của nó. Sản phẩm này phải đáp ứng nhu cầu về con người giúp giãi quyết các vấn đề xảy ra trong xã hội. Nguyên lý #3: Lý tưởng mà nói, một nền giáo dục tốt phải thoã mãn chính sách toàn dụng (full employment) của xã hội. Đây là main solution của một nền giáo dục. Song song với main solution thì có mội giải pháp alternate là (1) không được có thất nghiệp, (2) cũng như không được có sinh viên ra trường mà bên sử dụng phải cho đào tạo lại, vì kiến thức thiếu hụt; (3) không được có những môn học đã lỗi thời, phải cho đào thải chúng, thay vì đào tạo sinh viên theo những môn này sau ra trường không sử dụng được, hoặc không đất dụng võ. Bây giờ ta đi vào giãi pháp chính (main solution) cho một nền giáo dục tốt, toàn diện, hiện đại. Và thêm một cái đuôi thường lệ: "giàu bản sắc dân tộc" (???). Bạn có thấy rùng mình không: vì cái giãi pháp chính của nền giáo dục mà ta mong tạo dựng, nó là một cục đá to tướng án ngữ trước mắt ta. Ta như là thằng nhỏ liliput. Làm sao đây. Do đó, trước đó, ai cũng thất bại không làm gì được. Tôi phải mất nhiều đêm động não. Rốt cuộc tôi đi đến kết quả như sau, trình bày cho bạn hay. Tôi muốn xem bạn "hấp thụ" ý tưởng của tôi ra sao. Ý tưởng như sau: tôi sẽ sử dụng SCM để phân tích "căn bệnh" khó nói, khó giải của nền giáo dục VN. SCM là gì. Đó là viết tắt của cụm từ Supply Chain Management, nghĩa Quản lý Chuỗi Cung ứng. SCM là một chức năng của ERP (Enterprise Resources Planning - Hoạch định Nguồn lực Xí nghiệp) một hệ thống quản lý xí nghiệp sử dụng máy tính. Vì ta đã chấp nhận nguyên lý #2 là ngành giáo dục đào tạo sinh viên tương tự như một sản phẩm hoàn tất trong kỹ nghệ, thì việc sử dụng SCM theo máy tính áp dụng cho giáo dục đối với Thiện mỗ chả có chi là lạ cả. Lạ ở chỗ là chả ai nghỉ tới giùm cho việc áp dụng. Nếu bạn nào muốn tìm hiểu về SCM, thì mời vào "Dương Quang Thiện blog" tìm đọc 3 bài báo về SCM. Bây giờ, bạn tưởng tượng như thế này: bạn xem nhà giáo dục như là một nhà sản xuất một sản phẩm hoàn tất (sinh viên). Trong ngành sản xuất người ta đi từ một ý tưởng gì đó, rồi cho nghiên cứu và triền khai (R&D), tiếp theo qua sản xuất, rồi qua khâu vận tải chuyên chở (logistic) cuối cùng đến phân phối sản phẩm cho đến tay người tiêu dùng là các cơ quan công quyền, các xí nghiệp quốc doanh/tư doanh, các tổ chức, v.v... Những công đoạn sản xuất này hình thành một chuỗi (giống như trên một chuỗi tràng hạt của các nhà tu hành), trước kia bị chia cắt, theo phân công lao động, nên gây ra phí tổn cao. Do đó, trong thời đại máy tính kỹ thuật số này, người ta dùng phần mềm quản lý SCM để quản lý các công đoạn sản xuất giúp giảm chi phí, tăng năng lực cạnh tranh, v.v.. Nếu đem áp dụng cho giáo dục, thì bạn thấy "chuỗi cung ứng" (supply chain) này kéo dài từ lớp mẫu giáo mầm non, qua tiểu học, trung học, cao đẵng nghề, rồi đến đại học, hậu đại học, nghĩa là một khoảng thời gian dài gần 20 năm của đời người. Như vậy, trong mỗi công đoạn (mầm non, tiểu học, ..) ta phải có một phương pháp nghiên cứu, phân tích, đánh giá, thi công thế nào, để cuối cùng có thể biết "giá thành sản phẩm" của mỗi con người trong công đoạn đào tạo. Mục tiêu của mỗi công đoạn là giá thành phải nhỏ, nhưng vẫn phải bảo đãm chất lượng. Khi công đoạn trong chuỗi cung ứng này qua công đoạn kia, thường phải có một "giao diện" trung gian cho phép chuyển từ công đoạn đi trước qua công đoạn kế tiếp đi sau. Thí dụ giao diện giữa công đoạn trung học qua công đoạn đại học là kỳ thi tốt nghiệp lớp 12. Trong mỗi công đoạn trên chuỗi cung ứng giáo dục, ta sẽ dùng phương pháp luận được gọi là CDIO tắt cụm từ Conceive Design Implement và Operation, nghĩa là: hình thành ý tưởng, thiết kế ý tưởng, thực hiện và vận hành. Phương pháp luận này hiện đang được dạy ở khoa CNTT tại ĐHQG TP HCM. Nói tóm lại, ta sẽ sử dụng SCM (thuộc ERP) và phương pháp luận CDIO để nghiên cứu toàn bộ hệ thống giáo dục và tiến hành cãi tổ. Sau khi hệ thống giáo dục được cãi tổ xong thì phần mềm SCM/CDIO sẽ được xây dựng theo dõi và thống kê liên tục để đánh giá so sánh với một cái chuẫn để biết những sai lệch nào mà sữa chữa kịp thời không có độ trễ. Một điểm khác mà Bộ GDDT không hề nghĩ đến là marketing (tiếp thị). Một nhà sản xuất, chỉ khi làm ra sản phẩm mới đem đi bán cho bà con thiên hạ để thu tiền về. Nếu sản phẩm bán ra là dỏm khác với những gì đã quảng cáo trên truyền thông đại chúng, hoặc trong những kỳ tư vấn hoành tráng, thì thế nào nhà sản xuất cũng sẽ bị gán cho cái tội lừa đảo, bị lôi ra toà là cái chắc. Còn hệ thống các trường đại học thuộc Bộ GDDT thì thế nào. Thu học phí trước, đào tạo sau. Đào tạo thế nào mà bây giờ ngồi than là có đến 72.000 thạc sĩ thất nghiệp, và còn bao nhiêu tiến sĩ giấy thấm nước chấm thất nghiệp. Có nên gán cho các trường ĐH này là những tập đoàn lừa đảo hay không: thu học phí trước rồi cho ra người ngợm không ra gì, không sử dụng được, phải "tái chế" lại kiến thức và kỹ năng mới mong sử dụng lại được phần nào. Trong sản xuất tiên tiến hiện đại, người ta vừa thêm một bộ phận được mệnh danh là TIẾP THỊ (marketing). Các trường kinh tế, quản trị kinh doanh đều có dạy bộ môn marketing này, đôi khi người dạy có thể không hiểu thấu hết cái ý nghĩa sâu xa của bộ môn này. Thấy bên Mỹ có bộ môn này, người ta cũng mua sách về đọc, cho mở bộ môn, rồi tha hồ chém gió. Cái nực cười là sinh viên marketing khi ra trường họ không hiểu cái nghề họ làm gì, mà lại làm bằng tay, không hề nghĩ đến việc tạo ra phần mềm để thu thập và khai thác số liệu tiếp thị. Trong thực tế, ngành này đòi hỏi những loại thông tin rất đặc biệt, phải sử dụng máy tính một cách triệt để để thu thập, và phải dùng những phần mềm phân tích để làm việc, chứ không ai đời làm bằng tay cả. Mục tiêu của marketing là gì? Đơn giản là làm thế nào trong tương lai, người tiêu thụ họ sẽ cần những món hàng gì, mẫu mã ra sao, số lượng bao nhiêu trãi dài theo thời gian, giá cả chấp nhận được, phân bổ theo địa lý thế nào. Khi bộ phận marketing đã có những số liệu này xong, thì sẽ phối hợp với bộ phận R&D để nghiên cứu ra sản phẩm, v.v... Nói tóm lại, bộ phận marketing lo thăm dò thị hiếu trong tương lai của người sử dụng, biết được hiện tình tiêu thụ sản phẩm của xí nghiệp ra sao, v.v... Do đó, theo Thiện mỗ, đáng lẻ Bộ GDDT phải có bộ phận marketing từ lâu, thế mà đến giờ này, Bộ chưa hề nghĩ đến điều này, đúng là lỗi thời kinh khủng. Nói tóm lại, những khái niệm về ERP, SCM, CDIO, và Marketing mà Thiện mỗ đã đề cập trong các phần trên thì các trường đại học ở VN đã dạy rồi, nên thiết nghĩ Bộ GDDT không xa lạ gì. Bộ nên nhờ các đại học tư vấn và cho áp dụng để cãi tiến hoạt động của mình. Thiện mỗ xin đề nghị những điểm sau đây: (1) Bộ GDDT nên thành lập một bộ phận marketing, với ý đồ, công năng như Thiện mỗ đã mô tả ở trên; (2) Theo luật, nghĩa là phải ra luật bắt buộc tại các cơ quan hành chánh chính quyền, tại các xí nghiệp quốc doanh/tư doanh, tại các cơ quan tài chính kinh tế xã hội, tại các tổ chức xã hội, các đoàn thể, ... nói tóm lại những nơi sẽ tiêu thụ các "sản phẩm" của giáo dục, Bộ GDDT phải có những ăng ten để thu thập những thông tin liên quan đến các nhân viên mà các nơi này sử dụng, và phân biệt những ngành nghề hiện tại, và những ngành nghề mới sẽ cần phải được mở trong tương lai. (3) tạo một cơ sở dữ liệu tổng hợp và toàn diện liên quan đến các số liệu đã được thu thập ở điểm 2, và phải tạo những chương trình phần mềm khai thác xữ lý các số liệu này. (4) phối hợp với các cơ quan tiêu thụ sinh viên ra trường để bàn đến nội dung đào tạo để lên kế hoạch đào tạo liên quan đến tài liệu, giãng viên, cơ sở vật chất giáo dục. (5) đánh giá lại sự đào tạo hiện hành để đề nghị những sửa đổi, cãi cách, v.v.. Nói tóm lại, phối hợp với máy tinh khai thác tối đa công năng của marketing cho mục đích giáo dục. Một điểm khác tôi muốn nhấn mạnh ở đây là vấn đề TIỀN BẠC. Thiện mỗ đã từng tiếp xúc với nhiều dân tộc, bây giờ buồn lòng mà nhận xét là không có dân tộc nào bê bối bằng dân VN khi đụng đến tiền bạc, và đạo đức tiền bạc. Hồi thời thực dân của ba má Thiện mỗ, thì 3 nghề mà người ta khuyên là nên tránh xa tiền bạc là: nghề nhà giáo, nghề bác sĩ y tá và nghề toà án. Ba nghề này ở VN thời buỗi này thì tay đã nhúng chàm, cái chi cũng phong bì trước tiên. Nói như theo bà má Thiện mỗ, thì thời buổi này là thời buổi kim tiền. Do đó, sau 1975, dân miền Nam học được câu: "đầu tiên, ... là tiền đâu". Bây giờ thì khỏi phải nói, phải thủ sẵn phong bì. Ở đây, Thiện mỗ chỉ xin đề cập đến giáo dục. Hằng năm NN VN dành 20% ngân sách cho giáo dục, thế mà Bộ GDDT vẫn chê là cón quá ít. Ngoài ra, cha mẹ học sinh sinh viên đóng góp cũng không ít hơn 20% ngân sách này cho giáo dục. Theo Thiện mỗ, ngân sách 20% cho giáo dục ở VN là rất cao so với các nước khác, và không có quốc gia nào trên thế giới mà cha mẹ học sinh sinh viên đóng góp nhiều nhất cho riêng giáo dục. Ngoài ra, hằng năm các gia đình giàu có ở VN đã chi thêm 3 tỷ đô (= 63.000 tỹ đồng VN) để gởi 100.000 sinh viên du học ở nước ngoài. Như vậy, VN đã chi một số tiền khổng lồ cho giáo dục, để rồi người ta than là giáo dục VN chả ra cái gì cả: không có đại học nào trong top 500 đại học danh giá trên toàn thế giới, con em đang xin tị nạn giáo dục ở nước ngoài, ... Cái kỳ cục, người ta đã điểm danh đến 21 trường đại học dỏm ngoại quốc, phần lớn là Hoa Kỳ, đã liên doanh với các trường đại học VN để đào tạo ra những thạc sĩ dỏm. Nghĩa là VN là môi trường đắc địa để người ngoại quốc nhảy vào lừa đảo giáo dục. Bộ GDDT thì lúc nào cũng ca bài ca thiếu tiền, các ổng vừa rồi còn đòi chi 34.700 tỷ đồng để cãi tổ giáo dục, thay đổi SGK, để rồi sau đó Bộ Trưởng phải xin lỗi vì mấy thằng đệ tữ ở dưới báo cáo láo. Thiện mỗ có cãm tưởng nơi không biết tiết kiệm là gì, nơi lãng phí kinh khủng, và nơi thiếu tinh thần yêu nước có lẻ là Bộ GDDT. Lấy chuyện sách giáo khoa. Không có nước nào thay đổi sách giáo khoa xoành xoạch như diễn viên thay áo quần. Hồi thời thực dân Pháp ở VN, sách được phát cho học trò mượn học, cuối niên học cho thu hồi lại. Nếu có thay đổi gì đó, thì người ta cho in ra một quyển sách nhỏ, cho biết trang nào từ hàng nào đến hàng nào, nội dung bị thay thế bởi nội dung mới trong quyển sách nhỏ. Nói tóm lại, cha mẹ học sinh chả bao giờ bỏ tiền mua sách, đầu năm mỗi học sinh sẽ nhận đủ sách cho niên học. Cuối năm, học sinh phải có cái màn ở lại lớp lo dán các chỗ sách rách, và màn bị phạt nặng khi không giữ gìn sách để rách sách. Với các thiết bị dạy học cũng thế. Có nhiều nơi, thiết bị dạy học đều đựơc cho trùm mền nằm chơi. Hình như Bộ không biết tiết kiệm là gì. Còn lãng phí thì khỏi nói. Xây một cái hai cái cầu tiêu mà dám chi ra 600 triệu đồng, trong khi xây nhà tình nghĩa đầy đủ tiện nghi chĩ với 25-30 triệu đồng. Trên 20 năm, Thiện mỗ đã hợp tác với báo Tuổi Trẽ xây trường học (trên 100 phòng học) cho những vùng sâu vùng xa. Kinh nghiệm cho thấy, chi phí xây một lớp học đối với Thiện mỗ chỉ tốn vào khoảng 50 triệu đồng, nhưng nếu giao cho sở giáo dục thì tốn khoảng 150 triệu đồng, nghĩa là gấp 3 lần. Bạn có thể thấy sự tiêu pha vô tội vạ, lãng phí kinh khủng của Bộ GDDT. Bạn vừa thấy một thí dụ về việc đổi SGK mà một nhân vật của Bộ đòi hỏi quốc hội duyệt chi đến 34.700 tỉ đồng. Có một điểm mà người ta thường hay than phiền, nhắc đi nhắc lại, mỗi lần đá động đến cải tổ giáo dục, là lương trả cho giáo viên quá bèo, ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục. Ta nên nhớ là ngân sách giáo dục đã chiếm 20% ngân sách quốc gia, là quá lớn, không thể tăng, nếu chi phí quốc phòng buộc phải tăng, do tình hình biển Đông, thì sao đây. Ở các nước châu Âu, giáo chức cũng chỉ là một công chức, nên lương của họ so với tư chức trong các xí nghiệp tư doanh thường thấp thua 20%. Tỉ lệ sai biệt 20% hiện hữu chẵng qua là cường độ làm việc của giáo chức bao giờ cũng thấp hơn so với bên tư chức. Bây giờ, bạn đem so lương giáo chức với lương phía tư chức bình thường thì theo Thiện mỗ không sai biệt quá 20% như ở châu Âu. Do đó, chả có chi mà than van đòi tăng lương. Nếu bây giờ, người ta muốn tăng lương cho giáo viên trong khi ngân sách giáo dục không thể tăng được, thì chỉ có cách duy nhất là giảm đi chi phí gián tiếp, nghĩa là giảm đi nhân viên quản lý gián tiếp trong bộ máy giáo dục. Thời buổi này, là thời buỗi kỹ thuật số, phải đưa tin học vào quản lý. Thí dụ: kế toán trong một trường học rất đơn giản, số giao dịch rất ít. Qua phần mềm, qua mạng ta có thể làm kế toán tự động tại một trung tâm, thay vì mỗi trường có một kế toán viên. Ngoài ra, hệ thống dạy học trực tuyến, gọi là MOOC (Mass Open Online Course), nếu được thực hiện một cách có hệ thống sẽ giảm đi số giảng viên tầm thường làng nhàng, và số giảng viên giỏi có thể cho ra những giáo trình có chất lượng, và người theo học, bất cứ lúc nào, bất cứ nơi nào, sẽ nhiều hơn. Các nước như Úc, Mỹ, và Hà Lan đã đi đầu vào ngành MOOC mới này, áp dụng triệt để tin học trong đào tạo, giảm đi nhiều chi phí và tăng chất lượng giáo dục. Một việc khác mà ta nên xem lại là việc cho mở ra quá nhiều trường đại học, nhưng lại thiếu trường đào tạo nghề, đưa đến tình trạng thừa thầy thiếu thợ, chất lượng dạy không đồng đều. Hồi Thiện mỗ du học ở Pháp, vào thập niên 50, Thiện mỗ nhận thấy sự phân bổ các đại học ở Pháp rất khoa học và rất hợp lý, không xô bồ như ở ta. Ở Pháp, một ngành nghề nào hot hay không hot cũng chỉ có tối đa 5 trường phân bổ thế nào trong vòng 400 km, có ký túc xá đàng hoàng, để sinh viên có thể đến học với chi phí rất thấp. Còn ở ta, những môn học hot như tin học, kinh tế tài chính kế toán thì dạy tràn lan trên cả 100 đại học, thì làm sao chất lượng bảo đảm, do trình độ giảng viên rất kém, thêm lại hay chạy xô, không thời giờ nghiên cứu. Ngoài ra, không nên cho liên kết với các trường đại học nước ngoài, vì như vậy tự thân sẽ giảm đi mọi cố gắng làm cho đại học nội địa ngày càng tiến bộ hơn. Người ta cũng đã báo động, hiện có 21 trường đại học dõm ngoại quốc, phần lớn là đại học Mỹ, đang liên kết với đại học VN. Nghĩ cũng lạ !!! Cuối cùng, một vấn đề rất tế nhị cần được đưa ra mỗ xẽ, không nên né tránh: đó là việc gởi sinh viên đi du học nước ngoài, mà báo chí mĩa mai gọi là "tị nạn giáo dục". Khi Thiện mỗ cho đăng một bài báo cũ về du học ở miền Nam trước 1975 trên blog của Thiện mỗ, thì một anh bạn Việt Kiều Mỹ, comment như sau: "Những gì bác viết cách đây 40 năm sao vẫn giống tình trạng như bây giờ - chỉ khác là mức độ trầm trọng hơn cả trăm lần. Theo thống kê mới nhất (nếu không nhớ lầm) thì VN hiện đứng thứ 6 có sinh viên du học tại Mỹ. SV VN hiện đang nuôi trường Mỹ vì phải trả học phí cao gấp mấy lần dân Mỹ... Do đó mới có hiện tượng khá nhiều trường đại học dỗm về VN chiêu sinh... Không biết ngoại tệ ở đâu mà người VN đi du học nhiều đến thế, trong khi ấy con em Mỹ muốn có tiền đi học đại học cũng chật vật. Rất nhiều đứa phải đi làm, hoặc đi lính một thời gian mới có tiền đi học... Một lần nữa cám ơn bác đã post lại những bài viết xưa để thế hệ chúng cháu học hỏi cách nhìn và suy tư của bậc lão thành." Báo chí đăng là hằng năm ta cho đi du học 100.000 sinh viên, với chi phí vào khoảng 3 tỷ đô. Số sinh viên thành tài về lại VN chỉ vào khoảng chưa tới 5%, nghĩa là 95.000 người thành tài đội nỏn ra đi. Hiện có 300.000 người thành tài đang tha phương cầu thực ở nước ngoài. Nói một cách ngắn gọn và đau lòng là "VN đang viện trợ chất xám" cho các nước giàu, như Mỹ chẵng hạn. Gần đây, có một tờ báo Mỹ đã viết là "sinh viên VN là cái mõ vàng đối với các đại học Mỹ". Bây giờ, bạn nên tìm hiểu thành phần xã hội của sinh viên du học, bạn sè rất ngạc nhiên. Ngoài ra, bạn thử xem 3 tỷ đô chi cho du học lấy từ đâu mà ra? Có phải là tiền bán nông sản, hải sản, v.v.. nghĩa là ngoại tệ do dân nghèo làm ra. Con cháu các người này không nằm trong thành phần du học sinh, có đúng không. Thế thì công bằng ở đâu? Thế mà người ta đang ra rã bảo là đang xây dựng một xã hội dân chũ, công bằng và văn minh. Thôi, tới đây Thiện mỗ không muốn làm mất thời giờ của bà con cô bác, xin ngừng lại đây, mặc dù còn có nhiều điều muốn nói nữa. DƯƠNG QUANG THIỆN - 29/05/2014

Thứ Tư, 25 tháng 4, 2018

Ông Hồ, ông Giáp, ông Kiệt, ,,,

26/4/2016: Trưa ÔNG HỒ, ÔNG GIÁP, ÔNG KIỆT VÀ BÀ CHỦ TỊCH HUYỆN: AI GIỎI HƠN AI Các cậu BFB chắc biết chuyện ông Giáp được cụ Hồ nhà ta phong cho hàm đại tướng trước khi đi dự hội nghị Fontainebleau, ở Pháp. Ông Giáp chưa qua một trường võ bị sĩ quan nào cả. Thế tại sao ông được lên tướng. Chẵng qua là ngồi trên bàn hội nghị, trước mắt tướng Giáp là một tướng Pháp ở trường võ bị Saint Cyr mà ra. Nếu ông Giáp không được giới thiệu là tướng, thì mất mặt biết mấy, câu đối đáp của ông Giáp sẽ không được coi trọng. Cho nên, Ông Hồ nhà ta, khôn thiệt là khôn. Khi giải phóng đất nước xong, thì lấy ai làm quản lý. Từ trước đến giờ, chỉ chuyên môn đấm đá, có ai biết quản lý gì đâu. Việc tiếp tế gạo cho tp Sai gon (trước ăn toàn gạo viện trợ Mỹ) nay giao cho bà nhà quê ở rừng ra tên là bà Ba Thi. Thế mà bà ta không biết chi về kinh tế, nhưng may là làm được. Ông Võ V Kiệt, đi kháng chiến vào tuổi 17, biết chi về kinh tế mà vào quân quản tp Sai Gòn. Thế mà ông ta làm được. Ông Kiệt chả bao giờ kể chuyện. Và bản thân ông ta không dám kể chuyện. Bây giờ, OGT kể. Đơn giản là ông Kiệt lặng lẽ cho thành lập một nhóm chuyên gia tư vấn cho ông gồm toàn trí thức miền Nam còn ở lại. Nhóm tư vấn cho ông Kiệt cầm đầu bởi Nguyễn Xuân Oánh, cựu thống đốc ngân hàng QGVN. Cuối bảng là có tên OGT, chuyên viên điện toán. Tới giờ này OGT không biết ai đưa tên ông vào danh sách tư vấn cho Ông Kiệt. Tụi ông làm tư vấn không công cho ông Kiệt trong 2 năm trời. Chấm dứt bởi một bữa ăn tại khách sạn Majestic và một cú bắt tay. Thế thôi. Như vậy, ta thấy ông Kiệt biết bỏ đi cái tự tôn ta đây là kẽ chiến thắng, đi tìm những người tài ở phe cựu địch để biết cách xữ lý đất nước về mặt kinh tế, hành chánh mà ông Kiệt mù tịt. Còn các vị CM khác thì sao? Họ là những người rất tự tôn: ta đây là kẽ chiến thắng nói như kiểu Huy Đức. Nên cách dùng tư vấn như kiểu ông Kiệt vừa kể trên thì họ không chịu làm đâu. Do đó, họ lý luận: muốn làm lãnh đạo trong tương lai thì phải có bằng tiến sĩ. TS giấy giỏ, TS giấy nhôm, TS giấy ni lông gì cũng được. Chĩ đạo này không được phổ biến cho dân chúng, nó cười cho. Thế là chỉ trong một thế hệ, tự nhiên vô số TS nhãy ra như nấm sau cơn mưa. Nói tóm lại, với cái lý luận: lãnh đạo CM giờ đây phải có bằng TS. Không có, không được. Cách đây 20 năm, OGT có làm việc với một chị chủ tịch UBND Huyện, trong việc tin học hoá cải cách hành chánh huyện. Chị này vui tánh, cởi mở, rất bình dân. Một ngày nọ chị bảo: anh Thiện, ngày hôm nay tui là Tiển Sĩ. OGT ngạc nhiên hỏi TS gì. Chị bảo TS sữ học. OGT hỏi lại: thế chị là đồng nghiệp của ông Duong Trung Quốc. Chị trã lời: lãnh đạo trên bảo tuổi đang còn trẻ, muốn tiếp tục làm lãnh đạo thì phải có cái bằng TS. Bận rộn quá trời làm gì có thời giờ đi học. Phải nhờ thằng nhân viên kỹ sư đi học thế, lấy bằng thế. Như vậy, chuyện lấy bằng TS chắng qua là đối phó với NN mà thôi. Do đó, nếu ta thấy đại biểu quốc hội ta hiện 90% là TS, thì đúng là loại TS kiểu bà chủ tịch Huyện, của tp HCM, nên chả hãnh diện gì. Nếu bây giờ, bạn đề nghị NN làm một Văn Miếu có bia Tiến Sĩ, thì chắc phải lên Trường Sơn kiếm một khoãng đất trống rỗng rộng như nghĩa địa Trường Sơn với những tấm bia hình cái mũ đăng khoa kiễu Mỹ, khắc vào tên vị TS. Bạn sẽ có một nghĩa địa 24.000 tiến sĩ, rất hoành tráng oai phong.

Chủ Nhật, 11 tháng 3, 2018

AMAZONE VÀO VN LÀM GÌ?

(2) 11/03/2018 : Chiều Khi sáng Ôn có viết đoạn cmt dưới đây: " Hôm qua, chắc các bạn BFB đã biết chuyện một công ty Mỹ tên là Amazone sắp "đổ bộ vào Việt Nam". Nghe giật tít "đổ bộ vào Việt Nam" làm Ôn liên tưởng đến việc Mỹ đổ bộ Đà Nẵng cách đây 53 năm bắt đầu một cuộc chiến can thiệp đẫm máu. Người ta hỏi OGT Amazone và Mỹ đổ bộ là 2 sự kiện khác nhau làm gì có sự tương đồng? Hình như OGT có vần đề. Khi nào rãnh ông sẽ kễ chuyện cho nghe. Trong khi chờ đợi, các bạn BFB cũng thử tìm hiểu vấn đề xem sao." Chiều nay, có chút rãnh rang, nên Ôn viết tiếp: Chắc bạn đã biết tay CEO của công ty Amazon, mang tên Jeff Bezos, là tay tỹ phú đô la của Mỹ đứng đầu thế giới. Ông ta vừa vượt qua tay tỹ phú lâu năm Bill Gates, chủ hãng phần mềm Microsoft. Đặc điểm của tay Bezos là có cái đầu tròn như quả trứng gà và cái đầu trên là sói kinh khủng. Sau 1975, Bill Gates và Jeff Bezos chưa phải là tỹ phú đô la. Chỉ từ năm 1982 khi máy vi tính ra đời thì Bill Gates bức phá đầu tiên là đại gia phần mềm, còn Bezos thì chỉ là tay bán hàng xén sách vở và những chi liên quan đến đồ điện tử gia dụng. Nghĩa là Amazon không có sản xuất gì cả Amazone chỉ lo phân phối sản phẩm của các nhà sản xuất khác. Nói tóm lại Bill Gates giàu lên nhờ bàn một sản phẩm tin học mà thiên ha đua nhau mua để dùng trong việc tin học hóa xí nghiệp, còn Bezos thì lo phân phối sản phẩm của các người khác, nghĩa là anh ta làm cái nghề mua đầu chợ bán cuối chợ như cha ông ta đã mô tả. Thế mà, bạn có bao giờ đặt câu hỏi: một thằng cha phân phối sản phẩn của người khác sao mà giàu nhanh kinh khủng. Vài năm gần đây, đế chế của Bill Gates ngày càng cho thấy lần hồi xuống dốc vì phần mềm của CM 3.0 đã bão hòa. Trong khi ấy thì Amazone đang lung lạc ngành bán lẽ ở Mỹ như tại các hệ thống siêu thị Wal Mart hoặc Macy. Tại các tập đoàn này người ta đang đóng cữa và sa thãi nhân viên vào khoảng 50%: nghĩa là 50% siêu thị bị đóng cữa và 50% nhân viến bán hàng siêu thị bị cho nghĩ việc. Trong khi ấy, Amazone thay thế việc bán hàng bằng siêu thị bằng bán hàng qua mạng. Người mua mua hàng qua mạng, trả tiền qua mạng và hàng từ nhà sản xuất sẽ giao cho bạn bằng những xe ôm (uber hoặc grab), máy bay không người lái, giao trực tiếp cho khách hàng, hoặc những điểm giao-nhận không có nhân viên. Nói tóm lại, cái nguyên lý hoạt động của Bezos là giảm đi thời gian mua hàng, thanh toán tiền và giao hàng tận tay. Như vậy giảm đi thời gian tiếp xúc giữa các đối tượng: khách hàng, nhà sản xuất, thanh toán, người giao hàng. Cái đặc điểm của Amazon là chuyễn việc giao hàng trực tiếp từ Amazone qua nhà sản xuất giảm đi gánh nặng tồn kho, việc thanh toán giờ đây không qua ngân hàng truyền thống mà qua một hệ thống giống như PayPal nhưng của riêng Amazon, hoàn toàn bằng tin học. Do đó, các ngân hàng truyền thống ở Mỹ đang mất đi 50% nghiệp vụ qua tay Amazone. Chưa hết. Chắc bạn nghe nói tới logistic, mà Ôn gọi là hậu cần. Trong ngành phân phối, thì công đoạn giao hàng từ nhà máy lên cãng biễn, lên tàu thũy chuyên chở, cần đến bến cãng, tàu hàng, kho hàng trung gian, xe container, v..v... Tất cả đống hổn độn này được gọi là logistics. Amazone tính ra rằng ở Mỹ doanh thu logistic hằng năm vào khoảng 700 tỹ đô, và lợi nhuận 15% rất cao nghĩa là có thể lãi 105 tỷ đô mỗi năm. Amazone tự hỏi sao mình không nhảy vào. Trong vài năm tới, Amazone dự định mua lại tất cả các bến cãng, đội tàu và hệ thống logistic cỗ lỗ xĩ của Mỹ để biến thành một hệ thống logistic hoàn toàn được tin học hóa. Khi nhãy vào VN, chắc là Amazone cũng có ý đồ gì đó đối với logistic VN trong tình hình xuất hàng hóa nông nghiệp VN ngày căng trong những năm tới. Làm sao biết được. Cuối cùng, bạn nên biết Amazone có một đội ngũ tin học vào khoảng 40.000 người. Bốn vạn người. Họ chỉ viết chương trình cho Amazone dùng không bán ra ngoài. Do đó, một đối thủ cùa Amazone khó lòng tìm ra nhân tài viết cho mình chương trình để đối nghịch với Amazone. Thì dụ trong giới ngân hàng không lấy đâu lập trình viên để viết phần mềm cho ngân hàng để đối nghịch với Amazone. ​Để kết luận, việc Amazone vào VN không dính dáng chi với việc quân đội Mỹ can thiệp vào cuộc chiến ở VN​ vào tháng 7/1965. ​Dương Quang Thiện 11/03/2018​

Thứ Hai, 19 tháng 2, 2018

KHÔNG BIẾT NÓI CHI THÌ XIN NÓI DÓC ĐẦU NĂM CHO VUI MÀ...

 19/2/2018: Chiều mồng 4 Tết Mậu tuất.

KHÔNG BIẾT NÓI CHI THÌ XIN NÓI DÓC ĐẦU NĂM CHO VUI MÀ...

Người ta đang nói nhiều đến một cuộc cách mạng kỹ nghệ thứ tư (CM 4.0) mà nhân loại đang tiến tới, trong khi cuộc CM 3.0 chưa bao trùm xong hết thế giới. VN ta chưa xong CM 3.0, nhưng các ông lớn NN VN lại thích nói khởi nghiệp theo CM 4.0. Người ta còn gọi CM 4.0 là CM kỹ thuật số, nghĩa là phần lớn sữ dụng chủ yếu các phần mềm tin học. Theo CM 4.0 bao gồm: máy in 3D, AI (trí tuệ nhân tạo - artificial intelligence) robotic (người máy), IoT (internet of things, các sự vật nối kết mạng), tự động hóa, biotech (kỹ thuật sinh học), fintech (financial technics, kỹ thuật tài chính), blockchain (chuỗi khối) v.v... Danh sách sẽ còn dài thêm theo thời gian. 

Tốc độ: là tiền tệ kinh doanh trong thời đại mới

Kinh doanh ngày nay đã phát hiện ra những lối đi mới: đó là việc định lại giá trị của thông tin, nghĩa là thông tin trước đây người ta ít để ý đến, nhưng bây giờ thông tin phải được xem như là một tài sản quí giá của xí nghiệp và phải được đưa vào bảng cân số kế toán. Ngoài ra, người ta phải tối ưu hóa những qui trình (process), bắng cách giá hóa các dữ liệu, cũng như việc kết nối. Người ta bảo: loại tiền tệ mới trong kinh doanh là tốc độ, và tương lai thuộc về ai chạy nhanh. Người ta bảo tương lai thuộc những doanh nghiệp nào lanh lẹ (agile), và biết hợp tác. Chìa khoá thành công nằm trong viêc hợp tác, mà công nghệ mới khuyến khích. Như vậy sẽ kéo theo một cuộc CM trong quản trị, mà người ta chưa định hình xong... 

Bây giờ...

Nhân dịp Tết người ta chúc bạn không biết bao nhiêu là điều, nhưng chung qui thì bao giờ bạn cũng phãi hiểu ngầm là người ta chúc năm mới bạn kiếm ra thật nhiều tiền. NHIỀU TIỀN !!!  NHIỀU TIỀN !!!

Chắc bà con biết công ty Amazon, của Mỹ, với thằng cha CEO đầu sói tên là Jeff Bezos. Nó là thằng đại gia giàu nhất thế giới, vừa qua mặt tay Bill Gate của Microsoft. Gia sản nó lên 125 tỷ đô, trong khi Phạm Nhật Vượng nhà ta chỉ mới 5 tỷ đô.

Chắc bạn cũng đã biết là Bill Gates làm ra phần mềm tin học (Windows, MS Office, ...) mà giàu lên rất nhanh. Còn Jeff Bezos lúc đầu rất quèn bán qua mạng những sách vở, văn phòng phẩm và đồ ca nhạc. Nghĩa là Amazone không làm ra sản phẩm và chỉ làm phần việc phân phối sản phẩm đến tay người tiêu dùng, nghĩa là một tay đầu nậu trung gian giữa nhà sản xuất và dân tiêu thụ. Một thằng làm ra sản phẩm tin học để bán ra, còn thằng kia ứng dụng tin học trong việc phân phối sản phẩm. Như vậy mẫu số chung giữa 2 đại gia là tin học. Như vậy, triết lý rút ra là trong tương lai mà bạn muốn làm giàu nhanh và vững chắc thì phải tìm cách ứng dụng tin học, một cách triệt để và một cách khôn ngoan. OK.

Trước tiên, cách làm giàu kiểu Microsoft, sau 40 năm, theo OGT là đang trong vòng lỗi thời. Phần lớn các cơ sở kinh tế hành chánh trên thế giới sữ dùng các phần mềm của Microsoft và tương đương nay cũng đã bão hoà, cho nên OGT không ngạc nhiên khi Jeff Bezos qua mặt Bill Gates không bóp còi. Tài sản giá hoá của Microsoft đang giảm lần so với các công ty khác. Do đó, bạn không nên làm giàu theo kiểu Bill Gates.

Còn Amazon làm giàu bằng cách làm thế nào sản phẩm của người ta đến tay người tiêu thụ một cách nhanh nhất, an toàn nhất và giá thành rẽ. Các kho hàng của Amazon đều do robot vận hành, cho nên rut ngắn thời gian tập kết hàng và giao hàng. Ngoài ra, Amazon còn chú tâm đến thời gian thanh toán giữa khách hàng và Amazon, hay giữa Amazon và nhà cung cấp sản phẫm. Nghĩa là kế toán sẽ được tin học hóa tối đa thông qua smartphone.
Amazone đang làm lung lay hệ thống siêu thị Wal Mart bên Mỹ, hệ thống logistic tại các cáng biển của Mỹ cũng đang trong tầm nhắm của Amazone.

Như vậy, nếu bạn muốn làm giàu thì đơn giản bạn quan sát những chỗ nào cần thu hẹp thời gian, không gian, các thông tin được thu thập thế nào giảm đi thời gian chết... Từ đó bạn tạo ra một giá trị mời...

Thôi, ông chém gió tới đây là đủ, đến phiên bạn thực hành nếu thấy hứng thú...

Dương Quang Thiện 19/02/2018