31/8/2015: Trưa
THU NHẬP NGƯỜI VIỆT ĐI SAU HÀN QUỐC, THÁI LAN HÀNG CHỤC NĂM...
CHUYỆN THẬT HAY KHÔNG?
Chắc bạn đã đọc xong bài "Thu nhập người Việt đi sau Hàn Quốc, Thái Lan hàng chục năm..." OGT này đoan chắc 100% các bạn ai cũng rất đồng ý nội dung bài báo, khen tác giả viết rất hay, rất chính xác, v.v.. Rồi tự thầm chữi đỗng: cái chính phủ CS này sao toàn là lãnh đạo vô tài bất tướng. Để rồi kết luận: dưới thời chánh phủ CS này, khó lòng mà VN sẽ đứng đầu ASEAN.
Bài báo này nói đến sự phát triển của VN so với các nước trong khu vực cùng tầm cở: HQ, TL, PHI, SIN, ML. Không so với Nhật, TQ, Mỹ, EU. Theo OGT, muốn chấp nhận một cuộc so sánh khách quan, thì cuộc so sánh nên được hình dung diễn ra như trên một trường đua điền kinh có nhiều băng đua, xuất phát cùng một thời điểm, cùng một vị trí.
KIỂM ĐIỂM TÌNH HÌNH CÁC NƯỚC TA MUỐN SO SÁNH
Ta chọn năm 1945, làm thời điểm xuất phát, nghĩa là sau thế chiến 2, lần lượt điểm qua từng nước một mà ta muốn so sánh.
(1) Mã Lai: một quốc gia hồi giáo bị Anh làm thuộc độ, và chỉ được độc lập vào năm 1957, 2 năm sau Điện Biên Phủ. Không có chiến tranh với Anh. Sau khi độc lập vẫn còn nằm trong Liên Hiệp Anh, nghĩa là ít nhiều nhận viện trợ từ Anh. Nói cách khác, Mã Lai có thể phát triễn từ 1957, giống như nam VN, thời kỳ Ngô Đình Diệm. Nhưng trong thời kỳ 1955-75: miền Nam VN vẫn ở trong tình trạng chiến tranh với Mặt Trận GPMN và quân đội Mỹ-VNCH. Nói tóm lại, 1957 là thời kỳ Mã Lai bắt đầu phát triển. Nếu có so sánh, thì lấy số từ 1957 đến 1977 mà so sánh với VN.
(2) Hàn Quốc (HQ): Vào thời điểm 1945, Triều tiên vừa thoát khỏi sự đô hộ 30 năm của Nhật Bản, nhưng lại bị chia cắt một bên là Bắc Triều Tiên, theo CS, bên kia là Hàn Quốc theo TB. Sau đó là chiến tranh chớp nhoáng Triều Tiên từ 1950-53. Sau đó là đình chiến 1954 đến nay. Bên HQ 500.000 người chết & bị thương & mất tích. Còn phía Bắc Triều Tiên thì số người là xấp 2. Nói tóm lại, chiến tranh ngắn ngũi 4 năm, Triều tiên không bị tàn phá nặng nề so với VN. HQ không có chiến tranh từ 1954, cùng năm với Điện Biên Phủ. Nói tóm lại, 1954 là thời kỳ Hàn Quốc bắt đầu phát triển. Nếu có so sánh, thì lấy số từ 1954 đến 1974 mà so sánh với VN. Nên để ý là từ 1954-74, trong chiến tranh ở VN, HQ đã nhận viện trợ rất nhiều từ Mỹ, nhận tiền sữa chữa tàu bè cho Mỹ, cũng như tiền đánh thuê cho Mỹ khi gởi sư đoàn Bạch Mã chiếm đóng miền Nam Trung bộ chống VC.
(3) Thái Lan (TL): trong suốt chiều dài lịch sữ của mình, TL chưa hề bị thực dân Anh và Pháp dô hộ. Chỉ khi thế chiến 2, TL hợp tác với Nhật chống Anh Pháp, nên khi Nhật đầu hàng, thì TL bị đòi bồi thường. Lúc ấy, Mỹ đỡ đòn nên TL khỏi bồi thường chiến tranh. Cho nên, TL chỉ có cơ hội phát triển kể từ 1960 kể từ khi Mỹ bắt đầu cuộc chiến can thiệp tại VN. Mỹ đã thuê căn cứ không quân Utapao để phá hoại miền Bắc. Kể từ 1965, quân lính Mỹ sau những cuộc hành quân ở VN thì qua TL dưỡng sức. TL trở thành ổ điếm nghĩ ngơi cho quân đội Mỹ tham chiến ở VN. Nói tóm lại, TL chỉ phát triển từ 1960, sống nhờ chiến tranh VN mà Mỹ can thiệp. Nếu có so sánh với TL, thì lấy số từ 1960 đến 1980 mà so sánh với VN.
(4) Philipine (Phi): Phi là một thuộc địa của Tây Ban Nha, sau đó được bán lại cho Mỹ. Sau thế chiến thứ 2, Phi được độc lập vào năm 1945. Nhưng mãi đến 1965, Phi mới bắt đầu phát triển. Trong chiến tranh VN, Phi cũng được lợi là đã tham gia vào việc cung cấp các đoàn quân y tế cho quân đội Mỹ, và đã cho quân đội Mỹ sữ dụng các căn cứ không quân và hãi quân. Nói tóm lại, nếu có so sánh với Phi, thì lấy số từ 1965 đến 1985 mà so sánh với VN.
(5) Singapore (Sin): là một thuộc địa Anh Quốc, đươc độc lập vào năm 1963. Dân số rất ít vào khoảng 6 triệu người, không hề có chiến tranh, và cũng chả có tài nguyên khoảng sản gì cả, ngoài sức lao động của cư dân. Có thể coi Sin như là một thành phố, như Tp HCM chẵng hạn, sống dựa trên khoa học kỹ thuật, và quản lý. Sin là một trung tâm tài chính khu vực, giàu nhờ là trung tâm trung chuyễn hàng hoá từ Đông sang Tây. Nói tóm lại, nếu có so sánh với Sin thì lấy số từ 1963 đến 1983 mà so sánh với VN.
(6) Indonesia : là một cựu thuộc địa Hà Lan dành đươc độc lập năm 1949, nhưng mãi qua 1968 mới nói chuyện phát triển dưới thời TT Suharto, sau khi ông này triệt tiêu 3 triệu đãng viên của toàn bộ đảng CS Indo năm 1965, với sự tiếp tay của CIA Mỹ. Nói tóm lại, nếu có so sánh với Indo thì lấy số từ 1968 đến 1988 mà so sánh với VN.
GDP LÀ GÌ.?
Bây giờ ta thữ xem qua GDP (Gross Domestic Product - tổng sản phẩm quốc nội), thước đo phát triển của một quốc gia. Cái vô duyên ở đây là người ta sử dụng cái thước đo GDP của TB đem đo sự phát triển của một nước theo CNCS. Thôi thì chịu vậy thôi, vì CS không có thước đo phát triển.
(1) theo định nghĩa, muốn tính ra GDP, người ta lấy tổng thu nhập do sản xuất và dịch vụ toàn quốc trong một năm rồi chia cho tổng số dân. Rõ ràng. Trong 2 con tổng, thì tổng số dân dễ tính qua các kỳ kiểm kê dân số. Nhưng con số tổng thu nhập thì hơi khó. Con số này phải cho gồm thu nhập của người dân, và thu nhập của các xí nghiệp. Nếu nước nào có hệ thống thống kê tĩ mĩ và hệ thống kế toán chính xác thì con sổ tổng thu nhập sẽ chính xác hơn. Và con số phải được minh bạch, khách quan, không được tô hồng. Như vậy, Bạn thử hỏi VN có được những điều kiện này chưa. Chắc là chưa. Do đó, con số VN đưa ra phải chỉnh theo một tỹ lệ sai số nào đó.
(2) như ta thấy khi tính GDP, ta phải có 2 con số tổng: tổng thu nhập và tổng số dân. Con số sau OK. Nhưng con số đầu có nhiều rắc rối. (2a): Rắc rối thứ nhất là phải đưa thu nhập của toàn bộ lực lượng lao động của xã hội và toàn bộ các xí nghiệp trên toàn quốc vào tính toán. Ở các TB thì OK. Còn ở VN, người ta có đưa thu nhập của anh xe ôm, bà bán cháo lòng ven đường, chị bán trái cây trước nhà tôi, chú bán chuối cạnh nhà bên, cô làm móng tay dạo, cu thợ đụng, v.v.. vào con số thu nhập không? Không. Theo OGT, có thể ở VN người ta để lọt lưới số người này vảo khoãng 40% lực lượng lao động. Như vậy, con số GDP của VN phãi tăng thêm 40%, bao gồm thu nhập của dân (mang tiếng là bần cố nông nhưng thu nhập có thể cao xấp 3 các cô ở ngân hàng) mà OGT vừa kể trên. (2b) Cái rắc rối thứ 2, là khi tính thu nhập, người ta đưa vào thu nhập của các công ty. Nếu ở nước TB như Mỹ hoặc Singapore chẵng hạn, thì các xí nghiệp giàu có toàn là tư nhân, chứ ít có quốc doanh. Ngược lại, nước nào mang tính xã hội, như Pháp hoặc VN chẵng hạn thì xí nghiệp lớn toàn là quốc doanh. Do đó, GDP của các nước thuần tuý TB là cao là do thu nhập của các hãng giàu, người giàu, còn GDP của các nghèo là vì không có những người giàu. Cái rắc rối thứ 2 này là do bà đầm tôi, người Thuỵ Sĩ chỉ cho thấy. Khi tôi khen là GDP của TS cao nhất thế giới. Bà ta bảo tôi lầm to. Bà bảo GDP TS là cao là do đưa vào thu nhập của các hãng giàu như Nestlé (sữa), Lindt (chocolat), các hãng dược phẫm, hoá chất, bảo hiểm và ngân hàng, v.v.. Còn thật ra, dân TS không giàu đâu: số người có nhà riêng chưa tới 40%. Chắc bạn đã nghe chuyện ăn thịt gà đễ mĩa mai cái rắc rối này. Tóm lại, GDP của các nước giàu, tính ra là tính đúng tính dủ, nhưng thực chất không phản ảnh đúng sự giàu có của nước đó, mà chỉ phản ảnh mức độ tăng trưởng của giới giàu có. Mà giới này chỉ chiếm 1-5% dân số. (2c) Bây giờ, bạn thữ so sánh GDP của Mỹ, Thuỵ Sĩ, Luxembourg và Singapore. Mỹ có dân số 300 triệu người, 600 tĩ phú, chưa kế không biết bao nhiêu tập đoàn giàu có. Trong khi 3 nước đi sau chĩ có vào khoảng 7 triệu dân, và cũng vô số tập đoàn giàu có. Và 3 nước sau có GDP từ 70.000 đến 120.000 đô, trong khi Mỹ chỉ có vào khoảng 53.000 đô. Như vậy, dân Mỹ đâu có giàu như ta tưởng, mà là các tập đoàn giàu có như Microsoft, Apple, v.v.. Như vậy dân Mý đâu có hưởng cái xái của dân giàu Mỹ để mà bắt chước quyết tâm.
THỮ LÀM CUỘC SO SÁNH
Như bạn thấy ở trên: (1) việc phát triển của VN chí có thể bắt đầu từ 1995 sau khi Mỹ bình thường hoá với VN. (2) muốn so sánh phát triển của VN so với các nước khác thuộc khối ASEAN, OGT lấy năm phát triển của mỗi nước cộng thêm 20 năm, để tìm ra GDP của mỗi nước dựa vào số liệu của Liên Hiệp Quốc; (3) sau 20 năm, số năm xê xích không bao nhiêu lấy số của năm 1980-1988, nghĩa là năm phát triển xuất phát là 1960-1968. OGT thấy tạm được. Do đó, OGT ghi ra bản dưới đây, gồm 3 con số: con số đầu tiên là năm xuất phát triển thực thụ. con số thứ 2 là năm kết thúc sau 20 phát triển : 2014 của VN, 1980-1988 đối với các nước khác. Con số thứ ba là GDP tương ứng. OGT chỉ xin lưu ý bà con: đô la năm 2014 trị giá thấp hơn đô la 1980-1988. Người ta gọi là chỉ số mắc mỏ cuộc sống (indice de cherte de vie). OGT chưa tìm được chỉ số này. Nhưng OGT có đọc đâu đó thì đồng đô la bây giờ chỉ bằng 70 cents cách đây 30 năm. Như vậy, con số 2.095 usd của VN năm 2014 chỉ bằng 1.467 usd
(1). (2). (3)
1. VIET NAM. 1995. 2014. 2.095 usd (= 1.467 usd năm 1984)
2. SINGAPORE. 1963. 1983. 6.715 usd
3. MALAYSIA. 1957 1980 1.802 usd
4. PHILIPINE. 1965. 1985. 567 usd
5. THAILAND. 1960. 1980. 683 usd
6. INDONESIA. 1968. 1988. 515 usd
7. HÀN QUỐC. 1954. 1980 1778 usd
Như theo bảng trên, bạn thấy là VN chỉ thua Singapore, hơn một cái đầu HQ và Malaysia, nhưng hơn hẵn Phi, Thái và Indo. Cuối cùng, OGT chã bao giờ tin là VN tụt hậu so với các nước vừa kể trên. Ngoài ra, trong phát triển của VN người ta quên: (1) VN phải tự tái thiết cuộc chiến tranh do ngoại bang gây ra mà không nhận được viện trợ hoặc bồi thường nào cả. (2) VN phải tự mình gánh vác những chi phí gián tiếp do chiến tranh gây ra: như thương phế binh phải chăm sóc, qui tập mộ liệt sĩ, ...Bộ QP Mỹ cho biết chiến tranh ở VN tốn 750 tỉ đối với Mỹ, nhưng một bác học Mỹ cho biết thật ra tổng phí là 3.000 tỉ, nghĩa chi phí gián tiếp sau chiến tranh gấp 3 lần. Còn ỏ VN thì người ta chưa tính ra. Như vậy, nếu phải chi cho những hậu quả của cuộc chiến, thì lấy tiền đâu mà phát triển.
Thế mà, theo bảng kể trên VN chã tụt hậu thế nào. Như vậy, chứng tỏ là VN rất Kiên cường trong phát triển.
Do đó, nếu bạn nào cho VN là tụt hậu, thì đi kêu ba thằng Mỹ mà chữi chúng. Chính chúng đã kỳ đà cản mũi không cho cụ Hồ đưa VN vào độc lập ngày 2/9/1945. VN mất 50 năm để phát triển. Lỗi tại ai.
8 tháng đã qua đi. OGT đã cố gắng làm cái gì đó. Từ tháng 2/2015 đến nay 8/2015, 7 tháng mà OGT chưa hoàn thảnh xong tập sách Warnier, cho phép lập trình viên tự đào tạo để có thế viết các chương trình quản trị xí nghiệp. Thế nào cuối tháng 9/2015 cũng phải xong. Nếu không xong thì coi chừng bị đét đít.
(1) Châu Âu, EU thì vừa xong vụ HL vỡ nợ, thì vụ dân di cư từ trung đông tràn qua như châu chấu. Vừa rồi, một xe container của dân buôn người vượt qua biên giới thì phát hiện ra 23 người đã chết trong xe... Thế rồi sao chả ai biết. Dân tị nạn đang đặt ra cho châu Âu vô số vấn đề: nhân đạo, an ninh, suy thíai kinh tế, v.v..
(2) Trung Quốc: các tai hoạ liên tiếp dồn dập đổ lên đầu: khủng hoảng chứng khoán, phá giá đồng NDT, BDS sắp sữa nỗ bong bỏng, liên tiếp 3 vụ nổ các nhà máy kho chứa hoá chất, làm ô nhiểm không khí; mỗi ngày 4.000 người chết do ô nhiễm không khí, ...
(3) Mỹ: 11 triệu người nhập cư bất hợp pháp chưa được hợp thức hoá tình trạng lậu của họ. Các chủ xí nghiệp, các khách sạn, nhà hàng tha hồ tự do bỏc lột dân nhập lậu này. Thêm lại bây giờ, con nít từ 13-18 tuổi từ các nước nghèo châu Mỹ La Tinh cũng tràn vảo Mỹ kiếm công ăn việc làm, làm tăng số dân nhập cư lậu. Rồi tay Stiglitz, giải Nobel kinh tế Mỹ, vừa ra sách, "Sự Đổ vỡ lớn", chĩ trỉch chính sách kinh tế của Mỹ đủ mọi mặt, nhất là sự sai biệt giàu nghèo quá cao ở Mỹ (trên 40 lần), làm Obama bực mình.
(4): Viet Nam: đang chuẫn bị nhậu. Túi tiền ít nhiều gì cũng phải nhậu, trừ OGT rất ngoan đạo.
OGT: tăng xông tạm ổn.
Theo báo chí Mỹ, thì lương tối thiểu ở Mỹ, nhiều năm rồi, là 7,5 usd/giờ. Họ đang biễu tình đòi tăng lên 15 usd/giờ, nhưng chưa được các xí nghiệp Mỹ đồng tình.
Với 7,5 nhân cho 200 giờ, thì lương là 1.500 usd/tháng, hoặc 18.000 usd/năm. Ở Mỹ, người nào lương dưới 10.000 đô/năm thì thuộc diện nghèo, và sẽ được nhận phiếu thực phẩm 50 đô/tuần. Ở New York, 7,8 triệu người thì 20% thuộc diện nghèo nhận phiếu thực phẩm. Bạn nên tự hỏi Tp HCM, với 8,3 triệu dân, có chế độ phiếu thực phẩm không?
Bây giờ, ta thữ tính 3,5 triệu/tháng là bao nhiêu so với Mỹ. OGT có một cái thang (scale) so sánh 1:8. Nếu ở VN là 1 thì ở Mỹ là 8. Như vậy: ở VN là 3,5 thì ở Mỹ 28 triệu. Tỹ lể hối đoái 1 đô ăn 22.000 đồng, như vậy 28.000.000 chia cho 22.000 cho ra 1.270 đô/tháng. Còn ở Mỹ là 1.500 đô. Khác biệt vào khoảng 15%.
Như vậy, đối với dân khố rách áo ôm, Mỹ có phải là một americain dream hay không.
5/9/2015: Sáng
PHÁT MINH LẠI NHÀ NƯỚC TRƯỚC SỰ HIỆN HỮU CỦA THẾ GIỚI KỸ THUẬT SỐ
Theo OGT, thì thời buổi kỹ thuật số này, không cần biết nên theo chũ nghĩa CS hay TB làm gì, hay theo độc đảng hay đa đảng làm gì, chĩ cãi nhau chí choé ở nghị trường không đi tới đâu, xôi thịt là bản chất hoặc cố đấm ăn xôi của các đảng TB. Ta nên chọn loại lãnh đạo nào biểt lo hạnh phúc cho nhân dân, biết phát triển hài hoà đất nước trong tiết kiệm dựa trên tài nguyên hạn hữu của đất nước. Cái loại lãnh đạo này cần tập trung vào một đãng nho nhỏ vài trăm người mà thôi, không cần hằng triệu hằng triệu đãng viên làm gì (như với các đãng CS) nuôi báo cô, tốn tiền của nhân dân vô ích.
Nói tóm lại: bạn nên xem lại sách sữ và học hỏi cách hành xữ của các vua chúa VN thời xưa (trước khi bị Pháp đô hộ) mà các ông CS đã gọi bậy là thời phong kiến giống như bên châu Âu thời trung cổ. Quan điểm sống của các vua chúa VN ngày xưa là: "thay trời hành đạo, thương dân như con" nghĩa là thay mặt thượng đế giáo dục dân chúng sống có đạo đức, các vua VN phải lo cho hạnh phúc của nhân dân phía trong, và bên ngoài phãi bảo vệ dân chúng khỏi hoạ ngoại xâm TQ ở phương Bắc, và Chiêm Thành ở phương Nam.
Trong khi chờ đợi, OGT mời bạn đọc một bài báo Pháp, OGT thấy hay hay nên dịch ra cho bạn đọc. Nếu BFB nào không thích suy nghĩ sâu xa hơn một lẫu cá canh chua thì khỏi nhọc công đọc làm gì. Còn bạn nào muốn biết một xã hội kỹ thuật số sẽ ra sao, đựợc quản lý, cai trị thế nào, thì thữ tìm hiểu xem bài báo nói gì. Theo OGT thì bài báo chưa sâu sắc, nhưng thà có còn hơn không. Thôi, mời đọc...
PHÁT MINH LẠI NHÀ NƯỚC TRƯỚC SỰ HIỆN HỮU CỦA THẾ GIỚI KỸ THUẬT SỐ
Trước sự phát triển ồ ạt thế giới kỹ thuật số (KTS) ngày càng mạnh, ta phải nghĩ thế nào về thế giới ngày mai, và tìm ra những giới hạn của thế giới này. Trong văn minh KTS này, đâu là những đầu mối chống quyền lực (contre-pouvoir) cho phép phát minh ra lại những mối tương quan giữa người cai trị và người bị trị. Theo tố chức CNIL (Commission Nationale Informatique et Libertés - uỹ ban quốc gia tin học và tự do) ở Pháp, thì ta phãi suy nghĩ lại vai trò của Nhà Nước (NN) để tìm lại biên độ xoay xở.
Các tạp chí hình như vẫn còn bở ngỡ trước sự ra đời của KTS và một số nhân vật chính trị hình như bị "qua mặt" bởi văn minh mới mẽ này.
Muốn suy nghĩ hoặc điều chĩnh một cái gì đó, ta phải có một biễu diễn rõ ràng về mặt tâm trí việc gì đã xãy ra. Nhưng ở đây, sự việc không phải như thế. Chúng ta đang đứng trước một sự thay đỗi văn minh. Những công nghệ mới vừa là tấm gương phản chiếu sự thay đối này, vừa là một đòn bẫy, một sự đẫy nhanh tiến độ của công nghệ. Xã hội bây giờ thấm nhuần KTS. Đây không phải là một hiện tương mới, nằm ngoài xã hội chúng ta. Đúng là toàn bộ thế giới của chúng ta đang chuyễn động, đang biến đổi, đang mang một chiều kích (dimension) mới lộn ngược nhờ KTS, và chính thay đổi chiều kích này làm cho ta nghiên ngá mất hướng đi. Mỗi cá nhân, từ theo cấp độ bản thân mình, đã cãm nhận là mình đang thay đổi vạn vật. Chúng tôi tin rằng sự thay đổi là cơ bản hơn: một thế giới đang kết thúc, một cái gì mới đang được hình thành sinh ra, và việc này buộc lòng ta phải xem xét lại các khái niệm của chúng ta, cũng như các giá trị, cách thức tổ chức, và nền văn hoá của chúng ta...
Những câu hỏi chính trị nào thế giới mới sẽ đặt ra cho chúng ta ?
Trước tiên, thế giới mới tạo một áp lực mới giữa cá nhân và tập thể: KTS trang bị cho những cá nhân nào muốn tự lập, theo cá nhân chũ nghĩa, đối lập với tập thể; trong cùng lúc, nhu cầu chia sẽ lại tăng cường. Làm thế nào xây dựng một hiệp ước xã hội chung xung quanh những căng thẵng này? Tiếp theo, những cân bằng chiến lược mới trên thế giới bắt đầu hình thành vẽ ra. Cuối cùng, những vấn đề mới xuất hiện: việc kiễm soát được cho lan rộng, các mạng thông tin dễ bị tổn thương... KTS tăng tốc hoặc hé lộ những phát triển này. Những cân bằng giữa cá nhân và tập thể phải là thế nào? Vai trò của kinh tế thị trường phải là thế nào? Sự thay đổi trong tập quán sử dụng có đưa đẫy đến việc thay đổi những giá trị hay không? Khung lưới (grid) giá trị là gì nào? Những cân bằng là gì? Đây là một vấn đề chính trị, đúng nghĩa ban đầu của nó, một vấn đề không mang màu sắc phe phái. Ta phải hình thành thành phố của thế kỷ 21. Tất cả phải phát minh lại từ đầu: các phương thức hoạt động, vai trò của NN, việc qui định... Ta phải hiểu sâu tận xương tũy sự thay đổi này. KTS cho phép hình dung trước cách thức mới trong việc suy nghĩ lại một thế giới. Phải tận dụng những gì ta thấy được tương tự như trong một phòng thí nghiệm. Thế dự án tập thể cho VN và cho châu Á là gì? Và cho châu Âu Mỹ là gì?
Tại sao khó suy nghĩ lại về hệ thống một các toàn cục?
Trước tiên phải chấp nhận khảo sát trong một thời gian dài hơn là thời gian ngắn hạn. Tiếp theo, là phải đặt xuống những yếu tố tranh cãi một cách cởi mỡ không thiên về một lý tưởng, một chũ nghĩa nào đó. Như vậy mới có thể tưởng tượng ra một khung lưới (grid) học hỏi, những tham chiếu cho phép hiểu được thế giới này.
Các nhà lãnh đạo của ta trên toàn thế giới, công cộng hay tư nhân, đều đi trễ trong việc hiểu biết thực trang xãy ra trên thế giới. Và không chắc gì họ là người giỏi nhất trong việc tưởng tượng ra những giãi pháp mới trong một khung hoạt động mềm dẽo và uyển chuyển.
Bạn có đề nghị gì mới không ?
NN (châu Âu) hiện đang ở trong một tình trạng tồi tệ. Áp lực ngân sách rất cao, và ta đang có một NN Pháp rất yếu ớt, NN không biết mình đang đi về đâu. Một NN không thấy thoãi mái đứng trước sự quản lý phức tạp của đất nước và xã hội. Nghĩa là phải định nghĩa rõ ràng vai trò của NN.
Nước Pháp là một trong những nước hiếm có theo đấy NN rất có nhiều điều quan trọng. Đây vừa là sức mạnh, cho phép có một khã năng hành động và tập hợp vô tiền khoán hậu, nhưng trong thời đại phức tạp này, thì lại là một yếu kém nếu NN không thích nghi nhanh với thời cuộc. Xem như chấm dứt thời kỳ NN là "diễn viên duy nhất" mang trong mình một giãi pháp, và hợp pháp độc quyền đưa vào áp dụng giãi pháp mình có trong tay. Bây giờ, các thành phần kinh tế cũng như xã hội dân sự đều có một vai trò phải diễn. Các công dân cá nhân giờ đây muốn hành động, và họ sẽ dựa trên những phương tiện mới để hành động. Nhiều cộng đồng xã hội đang hình thành. NN vẫn còn giữ một vai trò ưu tiên: là cho hiện lên một khế ước xã hội, và làm cho khế ước này phải được tôn trọng, nhưng NN phãi xây dựng khế ước này với tất cả các thành phần khác trong xã hội.
Làm thế nào kết nối nhịp nhàng thay đổi này ?
Chánh quyền hợp pháp phải thay đổi về mặt văn hoá (ND: nghĩa là thế nào?) và phải trở thành một cách nào đó là animateur của cộng đồng xã hội. Một vai trò chưa bao giờ được thực hành.
Chánh quyền công cộng phải lắng nghe, phụ giúp các acteur bằng cách ấn định những qui tắc với các thành viên của họ và yêu cầu tôn trọng các qui tắc này. Nói cách khác NN là nơi bảo đãm khế ước xã hội tập thể mà NN đã giúp hình thành.
Chánh quyền phải hiểu rằng bằng cách biến đổi như thế này, họ sẽ không sợ bị lui về thế bất lực hoặc thụt lùi. Ngược lại, chánh quyền sẽ tìm thấy biên độ xoay xở và có một vai trò.
Nếu ta đàm phán dựa trên tập thể, người ta có sức mạnh hơn. Châu Âu là một đòn bẫy rất mạnh. Nhưng mô hình của châu Âu đã hết hơi rồi, cần được tăng sinh khí lại. Người ta không thể nào lý luận theo chủ quyền quốc gia như đã làm trong những thập niên 1950. Cần phải có một dự án đồ sộ mang tính xã hội và kinh tế cho châu Âu.
Những thay đổi đến từ những cá nhân, nghĩa là một vài cá nhân cùng chia sẽ một mong muốn. Các ý tưởng đều có đấy, giãi pháp cho vấn đề khòng đến nỗi rắc rối. Ta có thể thấy nhiều vấn đề phức tạp đã tìm thấy giãi pháp. Vấn đề là ai sẽ lãnh đạo việc thay đổi này.
***************