Tổng số lượt xem trang

Thứ Năm, 5 tháng 5, 2016

CHỐNG THAM NHUNG THẾ NÀO

6/5/2016: Sáng.

LUẬN VĂN TIẾN SĨ: "CHỐNG THAM NHŨNG" CỦA OGT

(1) Người Pháp, trước khi nói đến tham nhũng, họ định nghĩa một khái
niệm rất đơn giản mà họ đặt tên là: Dấu hiệu bề ngoài của sự giàu có
(signe extérieure de richesse), BNGC. Người Pháp bảo rằng từ cái dấu
hiệu BNGC này sẽ chĩ dẫn cho biết đối tượng có tham nhũng hay không.
Do đó, trọng tâm là phát hiện cái dấu hiệu chĩ dẫn. Ta sẽ xem sau
những yếu tố nào hình thành dấu hiệu BNGC.

(2) Để khỏi mất công, tăng tính hiệu quả của việc tìm đối tượng tham
nhũng, ta phải hạn chế phạm trù (context) chống tham nhũng. Tham nhũng
chĩ dính líu đến các công chức NN từ tổng thống, tổng bí thư, thủ
tướng xuống đến cán bộ, kể cả bảo vệ. Ai nằm trong cơ chế xin-cho,
đụng đến tiền bạc, là trong tầm nhắm chống tham nhũng. Như vậy, dân
chúng và các doanh nghiệp tư nhân, các tổ chức ONG tư nhân sẽ nằm
ngoài điều tra tham nhũng (TNH). Tóm lại chĩ điều tra chống THN đối
với các công chức NN và đãng viên DCS hoạt động trong hành pháp, tư
pháp, quân đội, cảnh sát, v,.v.. Như vậy, số đối tượng phải điều tra
vào khoảng 2-3 triệu người, trên 100 triệu dân số. Nếu ta sữ dụng máy
vi tính để trữ thông tin của tất cả các vị này thì không bao nhiêu.
Nhưng khi ta tạo một cơ sở dữ liệu (CSDL) toàn quốc, trong việc tổ
chức chính phủ điện tữ thì số 2-3 triệu người cần điều tra TNH, đã nằm
trong CSDL rồi. Chỉ cần thêm thông tin liên quan đến dấu hiệu BNGC là
xong. Không tốn chi phí bao nhiêu. Do đó, điều tiên quyết NN phãi cho
tạo một CSDL toàn quốc rất chi tiết, có khả năng tự động cập nhật liên
hồi, nên về sau khỏi phải điều tra thống kê.

(3) Bây giờ OGT thữ vẽ sơ bộ cấu trúc của database chứa thông tin của
toàn dân chúng. Ta theo nguyên tắc: mỗi công dân từ khi sinh cho đến
khi chết chí cỏ một record (mẫu tin) duy nhất chứa tất cả các thông
tin của đương sự suốt cã cuộc đời. Cấu trúc mẫu tin OGT chọn là một
hình xương cá.

(4) Tới đây, bạn có một cấu trúc dữ liệu cho phép NN tạo một CSDL toàn
dân, duy nhất, nhất quán, dựa trên ấy mà NN có kế hoạch phát triển đất
nuớc. Lấy một thí dụ: dựa trên ngày sinh, và địa phương cư trú, NN có
thể biết có bao nhiêu học sinh ở lớp nào, và trong năm tới sẽ biết ở
lớp nào ở độ tuổi nào. Và nếu ta có một CSDL các trường lớp một cách
chính xác, thì NN sẽ tính ra trong 5 năm tới cần bao nhiêu trường lớp

phải xây, rồi so sánh với số liệu bộ yêu cầu thì biết bộ giáo dục có
tham nhũng hay không. Và nếu ta có CSDL các giáo viên, thì phối hợp
với CSDL toàn dân, ta biết số giáo viên nào phải đào tạo v.v.. Vài câu
lệnh SQL, và vài chương trình Crystal Report viết xong trong tíc tắc
thì ta có báo cáo này nọ, mà hiện giờ Bộ phải chỉ thì cho cơ sở lảm
thống kê, báo cáo phải mất cả năm trời, trong khi máy vi tính trong
một ngày là xong.

(5) Tiếp theo, mỗi Bộ phải tự mình xây dựng một HTTT kiểu ERP hoạt
động từ trên xuống, từ Bắc vào Nam. Như vậy, mỗi bộ sẽ có một CSDL
thống nhất, duy nhất, chính xác. Và trong mỗi nghiệp vụ của một cơ
quan của bộ liên quan đến một người dân, đến một xí nghiệp, đến một tổ
chức xã hội, chính trị, kinh tế thuộc CSDL, thì kết xuất phải được cập
nhật lên một đốt xuơng của record liên đới. TD: một trường đại học khi
trao bằng tốt nghiệp cho một sinh viên, thì thông tin cái bằng phải
được nhật tu lên record của sinh viên trên CSDL toàn dân, theo đốt
xuơng đại học, đồng thời CSDL của nhà trường liên quan đến các bằng
cũng được phải nhật tu. Như vậy làm gì có bằng giả.

(6) Tới đây, bạn đã nghe OGT yêu cầu (A) NN xây dựng một CSDL toàn dân
thống nhất, theo cấu trúc xương cá như đã trình bày ở trên; (B) mỗi bộ
xây dựng cho mình một số CSDL đặc trưng thống nhất của chức năng của
bộ ngành và các chương trình nghiệp vụ và HTTT kiểu ERP cho phép cung
cấp dịch vụ đặc trưng của bộ cho người dân, tổ chức xã hội, đoàn thể.
Như vậy giữa người dân và các cơ quan NN có một số tương tác cho ra
một số thông tin mà ta phải thu thập ghi nhận. TD: Sở GTVT cấp một cạt
vẹt cho một chiếc xe ông X vừa mới mua. Sở GTVT cấp cái cạt vẹt xong
rồi không nghì đến gì nữa. Còn ông X đem xe về với cái cạt vẹt trong
túi, và không nghỉ gì thêm. Còn công ty Z bán chiếc xe cho ông X thì
sau khi nhận tiền giao xe thêm cái hoá đơn, rồi sau đó cũng không nghĩ
gì thêm ngoài việc tăng doanh thu phải khai cho thuế vụ. Nói tóm lại,
chiếc xe bán ra đã gây ra không biết bao nhiêu là thông tin, và các
thông tin này không liên đới với nhau, chúng nằm rời rạc. Bây giờ, với
mức độ kỹ thuật tin học hiện thời cộng theo mạng, thì nhà buôn khi làm
hoá đơn bán xe cho ông X thì thông tin hoá đơn của chiếc xe sẽ chuyễn
từ mạng (1) qua phòng GTVT chuẫn bị lảm cạt vẹt, (2) qua phòng thuế để
khai doanh thu, tính thuế gì đó; (3) chuyễn qua cho CSDL toàn dân vào
đốt xương Xe Cộ của ông X. Nhưng có một thông tin thứ 4 không ghi nhận
là tấm chi phiếu của ông X thanh toán cho công ty Z. Trong hiện tình
chỉ có thông tin số 3 là khó kết nối,vì nhà buôn Z không có quyền thâm
nhập vào record của ông X nằm trên CSDL toàn dân.

(7) Như vậy, ta phải tạo một cơ chế tạm gọi là "cơ chế giao liên". Lấy
TD cung cấp cạt vẹt. Khi bộ phận GTVT cấp một cạt vẹt thì phần mềm
nghiệp vụ sẽ trích ra một số thông tin mà dân IT hay gọi là trailer.
Qua cơ chế giao liên đặc biệt do bộ phận An Ninh của NN quản lý, cái
trailer biết tìm về record của ông X trên CSDL, tìm đến đốt xương xe
cộ cập nhật một link table với thông tin của chiếc xe vừa mới mua. Bạn
cứ thữ tưởng tưởng những thông tin nào cần dùng quản lý, nhớ không
quên tiền chiếc xe, và con số chi phiếu. Nếu ông X trước đó 3 xe khác,
thì link table cho phép ghi tiếp link thứ 4 giúp ghi trailer của xe
mới mua.

(8) Tới đây, OGT xem như là ta có : (1) một CSDL toàn dân mang cấu
trúc xương cá, và lần lần các bộ, ban nghành lần lượt điền dữ liệu lên
các đốt xương của record nhân dân, thông qua cơ chế giao liên. Các
trailer sẽ tự động trích từ các nghiệp vụ mà điều hành viên không biết
sự hiện diện; (2) mỗi bộ ngành phải tự xây dựng riêng cho mình một
hoặc nhiều CSDL đặc dụng và một hệ thống ERP lo giãi quyết nghiệp vụ
đặc trưng của bộ ngành, đồng thời kiểm soát hoạt động của mọi nhân
viên của bộ, ban ngành. Hồi nhóm SAMIS của OGTviết hệ thống chương
trình cải cách hành chính cho huyện Bình Chính, chủng tôi đã cho ra
một hệ thống chương trình cho phép kiễm soát hoạt động của nhân viên
văn phòng gắn liền một Hồ sơ phải giãi quyết cho dân. Chị chủ tịch
huyện ở trong phòng mình có thể biết tường tận ai đang làm gì, ai đang
đi nhậu, v.v.. Chỉ một cú click chuột rồi xem trên màn hình.

(9) NN phải ấn định kể từ ngày nào đó, mọi nghiệp vụ tài chính &
thuơng mãi trên 3 triệu chẵng hạn phải thông qua ngân hàng. Điện thoại
thông minh (smartphone) sẽ là công cụ ra lệnh rút tiền, chuyễn tiền và
bó tiền vào. Như vậy mọi giao dịch tiền tệ có thế được theo dõi.

Tới đây xem như ta đã biết phải tạo hạ tầng cở sở cho một HTTT thế nào
để thực hiện chánh phủ điện tữ, cải cách hành chính. Còn chương trình
chống tham nhũng chỉ lả một phó sản (by Product) của hai hệ thống kể
trên.

(10) Bây giờ, ta bắt đầu xem cách người Pháp họ làm thế nào biết được
ai là tham nhũng (THN). Họ thông qua một công thức kế toán: (1) Kết số
đầu kỳ (KSDK); (2) Tổng thu nhập (TTN); (3) Tổng chi tiêu (TCT); (4)
Kết số cuối kỳ (KSCK). Kỳ quan sát là một năm, hoặc 12 tháng running.
Chắc các bạn đã hiểu ý nghĩa của 4 con số kể trên, thường là số tiền.
Người Pháp họ lý luận rằng: theo nguyên tắc KSDK + TTN - TCT = KSCK.
Nếu KSCK là Dương thì OK. Còn nếu KSCK là âm là không ổn, vì tiền đâu
mà xài quá trời như vậy. Chính vì số tiền không được khai ra, nên mới
âm như vậy. Cho nên, ta phải phân tích con số âm của KSCK để tìm ra
chĩ dẫn BNGC.

Từ trước đến giờ, để chống tham nhũng, NN VN yêu cầu các cán bộ chủ
chốt kê khai tài sản. Coi như việc làm này là cây gậy thần chống tham
nhũng. Thế mà 20 năm qua, không thấy một vụ xữ án tham nhũng nào,
trong khi trong dân chúng luôn luôn râm rang bảo chánh quyền tham
nhũng, THN... Trong khi ấy, Tập Cận Bình chì trong một năm đã lôi
xuống đất không biết bao nhiêu siêu quan THN. Vậy là thế nào? Người
ta, trong Đãng bảo rằng làm chi có tham nhũng, chẵng qua nghe bậy
thôi, thích nghe bậy thôi. Đúng thế, chuyện đồn bao giờ cũng không
chứng cứ nhưng lại hấp ẫn người nghe, giống như hồi nhỏ thích nghe
chuyện ma khi đang nấu bánh tét.

(11) Trong thời buỗi kỹ thuật số (KTS), với sự ra đời khái niệm IoT
(Internet of Things) thì ta nên tận dụng KTS để mà giãi quyết nạn THN
nếu có. Như đã nói trên, người Pháp họ quan sát 4 con số vừa kể trên:
KSDK, TTN, TCT, KSCK. Bây giờ, ta thử xem con số TTN. Đó là tất cả thu
nhập của người nào đó mà ta quan sát trong một chu kỳ kế toán: một
năm, hoặc 12 tháng running. Thu nhập, nghĩa là tiền vào tài khoản qua
những giao dịch chuyển khoản từ tài khoản ai đó vào tài khoản đối
tượng. Như vậy, điều kiện tiên quyết là (1) các đối tương phải có mở
tài khoản ngân hàng; (2) việc giao dịch trên một số tiền nào đó phãi
thông qua các chi phiếu ngân hàng, hoặc qua các giao dịch sử dụng
smartphone trong tương lai không xa. Với cái thế giới quen sử dụng
tiền mặt như ở VN, thì NN VN phải ra lệnh là tất cả các giao dịch liên
quan đến tiền tệ phải thông qua ngân hàng, ATM, hoặc smartphone, để có
dấu vết mà thanh tra, kiểm soát, và truy cứu trách nhiệm, giống như
camera trong đời thường.

Thế tiền thu nhập là những gì: (1) nếu bạn là dân làm công ăn lương,
thì doanh nghiệp, cơ quan NN phải thanh toán tiẻn lương qua Ngân hàng.
(2) tiền bán cái chi đó: chiếc xe, cái nhà, miếng đất, ...(3) tiền
vay, tiền lãi ngân hàng, tiền người thân trả; (4) ... Nói tóm lại, khi
xây dựng hệ thống chống tham nhủng, ta phải phân tích các khoảng tiền
thu nhập, phân ra chính đáng và không chính đáng. Phần TCT, ta cũng
phải phân tích tĩ mĩ như cới TTN. Có những chi tiêu không có hoá đơn:
như đi chợ nấu ăn, v.v.. Những chi tiêu này NN phải nghiên cứu, đưa ra
một con số. TD: nếu ta có một đốt xương ghi chi tiêu cho một gia đình
3 con chẵng hạn. Thì số tiền này do NN tính toán ghi vào đốt ông cha
chủ gia đình. Record của các người khác trong gia đình thì ghi zero.

(12) Nói tóm lại, cơ quan nào đứng ra phân tích, tổng hợp các số liệu
vừa kể trên. Xin thưa, bên Pháp họ giao cho thuế vụ. Từ 2 năm này,
thuế vụ Pháp có xây dựng một phần mềm cho phép nhân dân toàn quốc tự
động khai thuế qua máy vi tính, iPad, iPhone, v.v.. bất cư lúc nào,
bất cứ nơi nào, không cần tiếp xúc với nhân viên thuế. Số nhân viên
thuế điều hành rất ít. Họ chì tham gia khi máy chịu thua yêu cầu nhân
viên thuế giải quyết. Do đó, bạn có thể khai thuế bất cứ lúc nào. Nếu
bạn bận ban ngày, thì có thể khai thuế ban đêm và giờ thích hợp cho
bạn, Bao giờ, phần mềm thuế cũng có mặt làm viêc với bạn, tương tác
với bạn. Máy hỏi bạn một điểm gì đó, bạn khõ vào trã lời. Nểu bạn trả
lời đúng máy hỏi câu kế tiếp. Bạn có thể ngưng bất cứ câu hỏi nào để
kiểm tra thông tin bạn trã lời. Máy cũng có thể ngưng bất cứ lúc nào
khi máy bí, và máy yêu cầu nhân viên thuế giãi quyết giùm. Với cách
làm này, 90% công viêc giao cho máy, bạn không thể tiếp cận với nhân
viên thuế, nên không có chuyện móc nối, nhũng nhiễu.
Chương trình thuế chuẫn bị trước những con số mà thuế vụ không biết ai
sẽ dùng, dùng làm gi, và việc đều do phần mềm thao tác. Các con số của
thuế vụ sẽ được ghi lên các đốt xương cá của người dân khai thuế.

(13) Để kết luận: muốn hình thành một hệ thống chống tham nhũng, thì
trước tiên NN phải cho xây dựng: (1) một CSDL toàn dân, chính xác, chi
tiết bao gồm tất cả công dân. Cấu trúc dữ liệu kiểu xương cá là đơn
giản nhất có thể chứ tất cả thông tin phức tạp của người từ khi sinh
ra cho đến chết; (2) một hệ thống cải cách hành chánh, theo đấy mỗi bộ
ngành có những hệ thống ERP quản lý nghiệp vụ đặc trưng của mỗi bộ.
Mỗi bộ ngành phải xây dựng cho mình một hoặc nhiều CSDL có thể liên
kết với nhau về mặt tin học để làm việc; (3) sở thuế vụ và quan thuế
mỗi cơ quan phải xây dựng việc khai thuế, và khai hàng hoá xuất nhập
khẩu thông qua một phần mền tính thuế tự động, tránh tiếp xúc trực
tiếp với nhân viên thuế có thể gây ra tham nhủng, nhũng nhiễu. (4) khi
có đũ 3 hạ tầng cơ sở (CSDL) kể trền, thì việc xây dựng hệ thống chống
tham nhũng kiểu Pháp mới có thể thực hiện.

(14) Tới đây, thì bạn chỉ cần xây dựng một chương trình đơn giản tìm
ra 4 con số: KSDK, TTN, TCT, KSCK, tính theo công thức KSDK + TTN -
TCT = KSCK. Và khi số KSCK là âm thì bạn dựa trên record mà in ra
những thông tin cần thiết cho cuộc điều tra. Trên các đốt xương tuỳ
loại thông tin, bạn có sẵn những thông tin qui chiếu, những tài liệu
qui chiếu cho phép bạn đọc lên một record nào đó của một CSDL của một
cơ quan nào đó.

Tóm lại với cấu trúc xương cá cho tất cả các CSDL, nghiệp vụ bình
thường hằng ngày của người dân và của các cơ quan công quyền, hệ thống
phần mền sẽ thu thập dữ liệu, ghi chép theo chì định, lưu trữ, tính
toán, tất cã chuẫn bị cho những thống kê liên quan đến phát triền đất
nước, cũng như cho phép "phượt" lên các CSDL để tìm ra những nghi phạm
tham nhũng.

Nguyên tắc: đừng bao giờ bảo nghi phạm khai ra, mà lặng lẽ gài những
bẫy lấy chứng cứ, không sữ dụng đến con người mà sử dụng tin học.

Nếu là OGT, ôn sẽ dùng những tay an ninh trong quân đội, trong cảnh
sát, trong tư pháp, trong TT, có lòng yêu nước, được đào tạo tin học
một cách cao độ, để tạo ra các hệ thống kể trên.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét