Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 17 tháng 9, 2017

SUY NGHI LUNG TUNG LANG TANG: OCEAN BANK HP ĂN CƯỚP TIỀN KHÁCH HÀNG, THẾ NÀO.?

SUY NGHI LUNG TUNG LANG TANG: OCEAN BANK HP ĂN CƯỚP TIỀN KHÁCH HÀNG, THẾ NÀO.?

Trên FB của OGT hôm nay, Ôn đã chia sẽ một bài báo về vụ: "24 sổ tiết kiệm gần 500 tỷ 'bị lỗi': Ngân hàng không thấy tiền đâu". Ngân Hàng ở đây là Chi Nhánh của Ocean Bank ở Hãi Phòng. Chắc cũng biết người ta đang xữ án Ocean Bank, một vụ đại án với 12.000 tỹ đồng thất thoát, và với 700 bị can, nghi can, ...
Hôm qua, ôn có đề nghị bà con tham gia giãi thích vụ Hãi Phòng, nhưng hình như mọi người phê bình lung tung... nên cả đêm ôn suy nghĩ đến câu chuyện tìm ra lời đáp, qua mặt CA. Có người hóng chờ trã lời của ông. Sau đây là giãi thích hiện tượng Ocean Bank (OB) của Ôn.

(1) Bạn nên biết OB có một HTTT tin học khá tinh vi, mua của nước ngoài, gọi là core banking nghĩa là cốt lõi nghiệp vụ ngân hành. Vì là phần mềm ngoại quốc nên sẽ có chút khác biệt so với VN nên khi cài đặt phải thích nghi với tình hình VN, mà ng ta gọi là customizing. Như vậy, căn bản phần mềm core banking phãi làm các nghiệp vụ cơ bản như: mở sổ TK, nhập xuất tiền, xuất nhập chuyễn khoản, khoá sổ tất toán, và các nghiệp vụ công nợ khách hàng, ... Như vậy so với các ngân hàng khác không có chi là yếu kém, đôi khi còn oách hơn các ngân hàng khác.

(2) Bây giờ, ta thữ rảo qua xem nghiệp vụ mở sổ TK mới và bỏ vào NH một số tiền 2 tỹ chẵng hạn. Khách hàng tiềm năng A đến quày nghiệp vụ, đưa CMND cho cô nhân viên X và báo cho biết ý định của mình. Cô nhân viên X yêu cầu khách hàng A qua quầy thu tiền đưa nhân viên ở đó kiễm tiền. Trong khi nhân viên X vô số liệu theo chĩ dẫn phần mềm, rồi cho in sổ TK và biên nhận. Công việc này bao giờ cũng nhanh hơn so với đếm tiền, nên cô nhân viên X chuyễn mẫu tin nhập liệu qua một file chờ đợi, và tiếp một khách hàng B khác.

(3) Khi đếm tiền xong, cô nhân viên quỷ báo cho cô nhân viên X biết là tiền đủ, thì cô nhân viên X liền đem sổ TK và biên nhận cho giám đốc chi nhánh ký rổi mời khách hàng A vào nhận sồ TK và biên nhận. Trong lúc ấy cô nhân viên X chờ lệnh bà GD cho biết là giao dịch hoàn tất hay chưa để chuyễn mẫu tin khách hàng A cho phòng kế toán để cuối ngày làm kế toán công nợ khách hàng và doanh thu.

(4) Khi khách hàng A vào phòng GD thì trước đó GD đã gọi quày thu tiền đem số tiền khách hàng A cho bà ta. Nên biết đây là một động tác bất thường, vì tiền thu sau khi hoàn tất là phãi đưa vào hầm giữ tiền. Khi bà GD nhận được gói tiền 2 tỹ, từ quày thu tiền, thì bà ta liền trích một số tiền bằng 2% giao cho khách hàng A. Động tác này cho thấy là giữa bà GD NH và khách hàng A đã có một thoả thuận ngầm: là khách hàng sẽ được 2% tiền lãi ngoài sổ sách và sổ TK chứng minh mình đã gởi tiền. Đây là bất thường thứ 2. Khách hàng A đi về an tâm, với sổ TK và biên nhận nộp tiền. Khách hàng A theo OGT là nhân viên của một tổ chức nào đó mà sếp muốn làm ăn riêng với bà GD NH.
(5) Khi khách hàng A rời khỏi phòng, thì bà GD gọi cô nhân viên X huỹ phiên giao dịch khách hàng A, không cho biết lý do. Cô nhân viên X vâng lời, vì theo OGT suy xét thi theo thiết kế, mẫu tin (record) giao dịch có trù liệu một vùng mục tin (field, mà có người dịch là trường) cho biết mẫu tin hợp lệ hay không. Nếu vùng này có chữ Y (Yes) là hợp lệ, hoặc N (Nó) là bất hợp lệ. Cô nhân viên X nhấn N thì mẫu tin đi về phòng kế toán. Tới đây, cô nhân viên X xem ra mình làm tròn nhiệm vụ... nhưng thật ra là bất thường thứ 3

(6) Theo nguyên tắc, khi khai báo dịch vụ là bất hợp lệ, thì cô nhân viên A phãi thu hồi sổ TK và biên nhận, rồi cho đóng dấu VOID nghĩa là vô hiệu lực và cho vào Hồ sơ. Ở đây cô nhân viên A không làm việc này, nên khách hàng X cỏ sổ TK và biên nhận, như trên báo chí cho biết có giấy tờ hợp lệ nhưng tiền không cỏ trong ngân hàng. Đây là bất thường số 4.

(7) Khi cô nhân viên A chuyễn mẫu tin, với con N, về máy của kế toán, thì cuối ngày pm kế toán làm công nợ khách hàng đối với các mẫu tin có con Y. Còn mẫu tin N thì sẽ được in ra trên danh sách mẫu tin dịch sai. Đây là bất thường thứ 4. Theo nguyên tắc kế toán thì khi anh làm sai một ngiệp vụ, thì anh cứ cho nó ghi sai, nhưng sau đó anh phãi cho ra một bút tích gọi là huỹ bó cái sai đi trước, rồi anh viết một bút tích mới cho biết con số dúng. Ở đây không làm thế, nên khách hàng A thì có sổ tiết kiệm, mà trong sổ sách thì không có. Tiền xem ra cuối cùng nằm trong phòng bà GD.

Nói tóm lại bà GD cố tình ăn cướp tiền khách hàng A, qua mặt sồ sách IT của ngân hàng, NH không biết gì cả.

Thế thôi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét